THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI - ÁNH SÁNG ĐỨC
TIN (Lời Mở)
LTS: Quý Vị độc
giả thân mến:
Thông Điệp Ánh
Sáng Đức Tin đã được Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI khởi viết để đánh dấu Năm
Thánh Đức Tin trên khắp Giáo Hội Toàn Cầu. Tuy nhiên, khi rời ngai tòa Thánh
Phê-rô, Đức Bê-nê-đíc-tô đã chưa kịp hoàn tất Thông Điệp này. Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô, khi được bầu lên kế vị Đức Bê-nê-đíc-tô XVI, đã tiếp tục công trình
mà Đức Bê-nê-đíc-tô đã khởi sự. Và đây được coi là Thông Điệp đầu tay của Đức
Thánh Cha Phan-xi-cô.
Như vậy, Thông
Điệp Ánh Sáng Đức Tin là một trong những Thông Điệp hiếm hoi được soạn thảo bởi
hai triều đại Giáo Hoàng. Và Thông Điệp này là một trường hợp độc nhất từ trước
đến nay bởi nó được công bố trong lúc cả hai vị Giáo Hoàng – tức hai vị đã soạn
thảo ra bức Thông Điệp – vẫn còn đang sống.
Bức Thông Điệp
này được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ký ban hành và được công bố vào ngày 05 tháng
07 năm 2013. Thông Điệp được chia thành bốn chương, cộng thêm
phần nhập đề và phần kết luận. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô giải thích rằng, Thông
Điệp này bổ túc các thông điệp về Đức Ái và Đức Cậy của Đức Bê-nê-đíc-tô XVI,
và tiếp nối “công trình tốt đẹp” của Đức Giáo Hoàng Hưu Trí - người đã “gần như
hoàn tất” Thông Điệp về Đức Tin này. Và Đức Thánh Cha Phan-xi-cô tự nhận mình
như là người chỉ góp “thêm phần đóng góp” của ngài vào “dự thảo đầu tiên” này
mà thôi (Thông Điệp Ánh Sáng Đức Tin số 7).
Khi chuyển ngữ bức Thông Điệp này sang tiếng Việt,
Ban Biên Tập chúng tôi đã tham chiếu khá nhiều các bản văn bằng các thứ tiếng
khác nhau, như tiếng Anh, Tiếng Đức và tiếng La-tinh v.v. Đối với các bản văn
Kinh Thánh được sử dụng trong Thông Điệp này, khi chuyển ngữ sang tiếng Việt,
chúng tôi đã tham chiếu bản Kinh Thánh tiếng Việt của Nhóm Phụng Vụ Các Giờ
Kinh.
Chúng tôi sẽ lần lượt cho đăng tải toàn văn bản dịch
bức Thông Điệp này. Mời quý vị đón đọc.
THÔNG ĐIỆP
LUMEN FIDEI
ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ
GỬI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
CÁC TU SĨ
VÀ CÁC TÍN HỮU
1.Ánh sáng Đức
tin: đây là cách thức mà truyền thống của Giáo Hội nói về quà tặng vĩ đại mà Chúa
Giê-su mang đến. Trong Tin Mừng của Thánh Gio-an, Chúa Ky-tô đã tự nói về mình
rằng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại
trong bóng tối” (Ga.12,46). Thánh Phao-lô cũng sử dụng một hình ảnh tương tự: “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán : Ánh sáng
hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí
chúng tôi” (2 Cr.4,6). Trong thế giới ngoại giáo, đói khát ánh sáng, sự tôn thờ
thần mặt trời đã phát triển- Sol Invictus – vị thần được cầu khẩn vào lúc bình
minh. Ngay cả khi mặt trời được tái sinh vào mỗi buổi sáng thì người ta vẫn có
thể hiểu một cách rất rõ ràng rằng, mặt trời không có khả năng để chiếu rọi ánh
sáng của nó trên tất cả sự hiện hữu của con người. Mặt trời không chiếu sáng tất
cả thực tại; tia sáng của nó không thể thâm nhập vào bóng tối của sự chết, nơi
mà con mắt nhân loại bị khép lại trước ánh sáng của nó. “Không ai – Thánh Giút-ti-nô
Tử đạo viết – đã từng sẵn sàng chết vì niềm tin của mình vào mặt trời” [1]. Nhận
thức được chân trời bao la mà đức tin mở tra trước mắt mình, các Ky-tô hữu đã cầu
khẩn Chúa Giê-su như là mặt trời đích thực, “ánh sáng của Người ban tặng sự sống
[2]. Trước sự khóc thương của Már-ta đối với cái chết của người em là La-za-rô,
Chúa Giê-su đã nói: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ
được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?" (Ga.11,40). Ai tin thì sẽ thấy,
người ấy thấy được ánh sáng chiếu tỏa trên toàn bộ cuộc hành trình của họ, bởi
vì ánh sáng ấy đến từ Chúa Ky-tô phục sịnh, sao Mai không bao giờ lặn.
Phải chăng đó là một thứ ánh sáng hão huyền?
2.Nhưng khi
nói về ánh sáng đức tin, chúng ta có thể nghe thấy hầu hết sự phản đối của nhiều
người trong thời đại chúng ta. Trong xã hội hiện đại, ánh sáng đó có thể được
coi là đủ cho những xã hội xưa kia, nhưng bị cảm thấy không còn sử dụng được nữa
đối với xã hội tân thời, đối với một nhân loại đã trưởng thành, tự hào về sự hợp
lý của mình và nóng lòng khám phá tương lai theo những cách thức mới lạ. Trong
ý nghĩa này, đức tin xuất hiện như là một thứ ánh sáng huyền ảo, cản bước con
người trong việc dũng cảm để đi đến với những cấp độ của sự hiểu biết. Lúc còn trẻ, Nietzsche
đã khuyến khích chị gái của mình là bà Elisabeth rằng, phải dám mạo hiểm để tiến
bước “trên những con đường mới” “trong sự bấp bênh của sự bước đi một cách độc
lập”. Và ông thêm vào: “Đây là nơi mà những
con đường của nhân loại bị chia rẽ: nếu bạn muốn cố đạt được sự bình an của tâm
hồm và hạnh phúc thì bạn hãy tin, nhưng nếu bạn muốn trở thành môn đệ của chân
lý, thì bạn hãy kiếm tìm” [3]. Đức tin sẽ không thể xung khắc với sự kiếm tìm. Kể
từ thời điểm đó, Nietzsche đã phát triển sự phê phán của ông đối với Ky-tô
giáo, điều làm giảm thiểu ý nghĩa đầy đủ về sự tồn tại của con người, và tước
đi sự mới lạ và phiêu lưu khỏi cuộc đời. Do vậy, đức tin sẽ trở nên đồng nghĩa
với một thứ ánh sáng huyễn hoặc, điều gây cản trở cho con đường của chúng ta
như là những con người tự do của tương
lai.
3.Trong tiến
trình đó, đức tin được mang đến trong sự liên kết với bóng tối ở điểm cuối. Có
những người người cố gắng cứu lấy đức tin bằng cách tạo ra một không gian cho
nó với ánh sáng của lý trí. Không gian đó sẽ mở ra bất kể ở nơi nào mà ánh sáng
của lý trí không thể chiếu rọi được, bất cứ nơi nào mà sự chắc chắn không còn
có thể tồn tại được nữa. Vì thế, đức tin được hiểu hoặc như là một hành động liều
lĩnh mạo hiểm được thực hiện trong sự vắng bóng của ánh sáng, được điều khiển bởi
thứ tình cảm mù quáng, hoặc là một thứ ánh sáng chủ quan, mà có lẽ nó có khả
năng làm ấm lòng và đem lại sự an ủi mang tính cá nhân, nhưng không phải là thứ
có thể được giới thiệu, được đưa ra cho người khác như là một thứ ánh sáng
khách quan cũng như được chia sẻ - tức thứ ánh sáng mà nó có thể chiếu rọi trên
những nẻo đường để bước đi. Tuy nhiên, chậm nhưng mà lại chắc, nó sẽ trở nên hiển
nhiên rằng, ánh sáng của lý trí không đủ để chiếu rọi tương lai; cuối cùng thì
tương lai vẫn còn là bóng tối và chứa đầy sợ hãi bởi những điều chưa biết. Kết
quả là, con người đã từ bỏ để không còn tìm kiếm một thứ ánh sáng vĩ đại, Chân
lý của chính nó, nhưng lại bằng lòng với những thứ ánh sáng thấp kém hơn, thứ
ánh sáng chỉ chiếu rọi được trong một khoảnh khắc tạm thời, nhưng không thể chiếu
rọi được đường đi. Lẽ dĩ nhiên, thiếu ánh sang, mọi thứ đều trở nên mù mờ;
không thể nói về điều tốt lành từ những sự xấu xa, hoặc từ những con đường dẫn chúng
ta đến với những đích điểm khác, tức những con đường dẫn chúng ta đi vào trong
những vòng tròn vô định, luẩn quẩn, chẳng đến được nơi đâu.
Một thứ ánh sáng sẽ được khám phá
4.Vì thế, có một
sự cần thiết cấp bách để nhìn lại một lần nữa rằng, đức tin là một thứ ánh
sáng, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin đã tắt, thì tất cả những thứ ánh sáng
khác cũng đều bắt đầu trở nên mờ đi. Ánh sáng của đức tin là độc nhất, bởi chỉ
nó có khả năng chiếu rọi vào mọi khía cạnh của hữu thể con người. Một thứ ánh
sáng mà sức mạnh của nó không thể đến từ bản thân chúng ta nhưng từ một nguồn cội
uyên nguyên: nó đến từ Thiên Chúa. Đức tin được sinh ra nhờ sự gặp gỡ với Thiên
Chúa Hằng Sống – Đấng đã kêu gọi chúng ta và tiết lộ tình yêu của Ngài, một
tình yêu đi trước chúng ta và nhờ đó chúng ta có thể an tâm và xây dựng cuộc đời
của chúng ta. Được biến đổi với tình yêu này, chúng ta có được cái nhìn tươi mới,
có được đôi mắt mới để nhìn; chúng ta nhận ra rằng nó chứa đựng một lời hứa vĩ
đại về sự viên mãn và một cái nhìn về tương lai rộng mở trước mắt chúng ta.
Đức tin – tức
điều mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa như một ân ban siêu nhiên – trở thành
một thứ ánh sáng cho con đường của chúng ta, và hướng dẫn chúng ta trong suốtcuộc
hành trình. Một mặt, nó là thứ ánh sáng đến từ quá khứ, tức ánh sáng của sự tưởng
niệm có tính nền tảng nơi cuộc đời của Chúa Giê-su – Đấng đã tiết lộ tình yêu
trọn hảo và đáng tin cậy, một tình yêu có thể chiến thắng cả tử thần. Nhưng từ
khi Chúa Ky-tô phục sinh và lôi kéo chúng ta vượt qua sự chết, thì đức tin cũng
là một thứ ánh sáng đến từ tương lai và mở ra trước mắt chúng ta những chân trời
rộng mở, dẫn chúng ta vượt lên trên sự ích kỷ của mình để hướng về khoảng không
rộng mở của sự hiệp thông. Chúng ta đến để nhìn thấy rằng đức tin không
cư ngụ ở trong bóng tối và u ám; nó là một thứ ánh sáng cho sự tăm tối của
chúng ta. Nhà thơ Dante, trong tác phẩm Hài Kịch của các Thần Thánh, sau khi đã
tuyên xưng đức tin của mình trước Thánh Phê-rô, đã miêu tả rằng, ánh sáng như
là một “tia lửa, rồi trở lên một ngọn lửa bừng cháy và giống như một ngôi sao, và
từ chính ngôi sao này mà tôi được chiếu sáng” [4]. Nó là thứ ánh sáng của đức
tin mà tôi bây giờ muốn xem xét, để nó có thể lớn lên và thắp sáng hiện tại, trở
nên một vì sao để chiếu sáng chân trời nơi chuyến hành trình của chúng ta tại một
thời điểm khi mà con người đặc biệt cần đến ánh sáng.
5.Chúa Ky-tô,
trước đêm vượt qua của Ngài, đã đảm bảo với Thánh Phê-rô rằng: “Thầy đã cầu
nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc.22,32). Sau đó Ngài nói với Thánh
nhân rằng, hãy làm cho cho anh chị em của anh nên vững mạnh trong cùng một đức
tin. Ý thức được nhiệm vụ đã được trao phó cho Người kế vị Thánh Phê-rô, Đức
Bê-nê-đic-tô XVI đã công bố Năm Đức Tin hiện nay, là thời gian của hồng ân giúp
chúng ta hiểu được niềm vui to lớn của đức tin và làm mới sự ngạc nhiên của
chúng ta nơi những chân trời rộng lớn mà đức tin đã mở ra, để rồi tuyên xưng đức
tin ấy trong sự hiệp nhất và toàn vẹn, trung tín với ký ức của Thiên Chúa và được
duy trì, nâng đỡ bằng sự hiện diện của Ngài và bằng hành động của Chúa Thánh Thần.
Sự xác tín được nảy sinh từ một niềm tin mà nó mang lại sự vĩ đại và viên mãn
cho cuộc đời, một miền tin được đặt trọng tâm vào Chúa Ky-tô và vào sức mạnh của
ân sủng Ngài, một niềm tin đã thôi thúc các Ky-tô hữu đầu tiên thực hiện sứ vụ
của mình. Trong sách Công vụ Tử đạo, chúng ta đọc được đoạn đối thoại sau đây
giữa Tổng trưởng Rô-ma Rusticus và một người Ky-tô hữu tên là Hierax: “Bố mẹ của
ông ở đâu”, quan tòa hỏi thánh nhân. Ngài trả lời: “người Cha đích thực của
chúng tôi là Chúa Ky-tô, và người mẹ đích thực của chúng tôi là tin vào Ngài”
[5]. Đối với các Ky-tô hữu sơ khai, đức tin - như là một cuộc gặp gỡ với Thiên
Chúa Hằng Sống được biểu lộ trong Chúa Ky-tô – quả thực là một “người mẹ”, bởi nó
mang lại ánh sáng cho họ và trong ánh sáng ấy họ được sinh ra trong cuộc sống
thiêng liêng, một kinh nghiệm mới và một cái nhìn rõ ràng về sự hiện hữu mà họ
đã chuẩn bị để làm chứng cho công chúng cho đến tận cùng.
6.Năm Đức Tin được
khai mạc vào dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày khai mạc Công Đồng Va-ti-ca-nô
II. Điều này tự nó là một sự biểu thị rõ ràng rằng, Va-ti-ca-nô II là một
Công Đồng về đức tin, [6] bởi vì nó yêu cầu chúng ta phải hoàn trả lại địa vị đứng
đầu của Thiên Chúa trong Đức Ky-tô đối với trung tâm đời sống của chúng ta, cả
hai như là một Giáo Hội và như những cá nhân. Giáo Hội không bao giờ giả định đức
tin như là một cái gì đó không cần giải thích, nhưng nhận thức rằng, quà tặng
này của Thiên Chúa cần được nuôi dưỡng và được tăng trưởng để nó có thể tiếp tục
hướng dẫn cuộc hành trình của mình. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã làm cho ánh
sáng đức tin có thể chiếu rọi vào sự hiện hữu của con người từ bên trong, đồng
hành với các người nam và người nữ trong thời đại của chúng ta trong cuộc hành
trình của họ. Điều đó đã chỉ rõ cho thấy đức tin đang làm phong phú đời sống
như thế nào trong mọi chiều kích của nó.
7.Những xem
xét về đức tin – trong sự liên tục với tất cả những điều mà quyền giáo huấn của
Giáo Hội đã tuyên bố về nhân đức thần học này [7] – nó có nghĩa là để bổ sung cho
điều mà Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã viết trong các bức thông điệp của ngài về Bác
Ái và Hy Vọng. Chính ngài đã gần như hoàn thành bản thảo đầu tiên của Thông
Điệp về đức tin. Vì điều này, với sự biết ơn ngài một cách sâu sắc, và như
là một người em của ngài trong Chúa Ky-tô, tôi đã nhận lấy công trình tốt lành
của ngài và bổ sung một số đóng góp của chính tôi. Đấng Kế vị của Thánh Phê-rô,
ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai, vẫn luôn luôn được kêu gọi để làm cho các
anh chị em của mình thêm vững mạnh trong kho tàng vô giá của đức tin mà Thiên
Chúa đã tặng ban như là một ánh sáng cho con đường của nhân loại.
Trong đức tin –
tức quà tặng của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên, mà Thiên Chúa đã đổ xuống
trên chúng ta - chúng ta nhận ra rằng, một tình yêu vĩ đại đã được tặng ban cho
chúng ta, một lời tốt lành đã được nói cho chúng ta, và rằng khi chúng ta đón
nhận lời ấy, tức Chúa Giê-su Ky-tô, Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, chúng ta được
biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần; Ngài thắp sáng con đường tiến về tương lai của
chúng ta và làm cho chúng ta vui mừng tiến theo con đường hy vọng. Vì thế, sự
hòa trộn kỳ diệu giữa đức tin, hy vọng và đức ái sẽ là động lực trong đời sống
của người Ky-tô hữu, bởi nó thúc đẩy và làm tiến mau đến sự hiệp thông một cách
trọn vẹn với Thiên Chúa. Nhưng con đường này sẽ như thế nào đây khi mà đức tin
mở nó ra trước mắt chúng ta? Đâu là nguồn gốc của ánh sáng đầy sức mạnh này, mà
với sức mạnh ấy nó có thể thắp sáng cuộc hành trình của một đời sống sinh hoa kết
trái và thành công?
(còn
tiếp)
BBT (Bản dịch được tham chiếu khá nhiều các bản
văn bằng các thứ tiếng khác nhau, như tiếng Anh, Tiếng Đức và tiếng La-tinh
v.v.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét