TOÀN VĂN THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI -ÁNH SÁNG ĐỨC TIN của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
LTS: Quý Vị độc
giả thân mến:
Thông Điệp Ánh
Sáng Đức Tin đã được Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI khởi viết để đánh dấu Năm
Thánh Đức Tin trên khắp Giáo Hội Toàn Cầu. Tuy nhiên, khi rời ngai tòa Thánh Phê-rô,
Đức Bê-nê-đíc-tô đã chưa kịp hoàn tất Thông Điệp này. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô,
khi được bầu lên kế vị Đức Bê-nê-đíc-tô XVI, đã tiếp tục công trình mà Đức
Bê-nê-đíc-tô đã khởi sự. Và đây được coi là Thông Điệp đầu tay của Đức Thánh
Cha Phan-xi-cô.
Như vậy, Thông
Điệp Ánh Sáng Đức Tin là một trong những Thông Điệp hiếm hoi được soạn thảo bởi
hai triều đại Giáo Hoàng. Và Thông Điệp này là một trường hợp độc nhất từ trước
đến nay bởi nó được công bố trong lúc cả hai vị Giáo Hoàng – tức hai vị đã soạn
thảo ra bức Thông Điệp – vẫn còn đang sống.
Bức Thông Điệp
này được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ký ban hành tại Rô-ma, trong
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô, vào ngày 29/06/2013, nhân dịp Lễ Kính
Thánh Phê-rô và Phao-lô Tông Đồ, năm đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô và được công bố
vào ngày 05 tháng 07 năm 2013. Thông Điệp được chia
thành bốn chương, cộng thêm phần nhập đề và phần kết luận. Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô giải thích rằng, Thông Điệp này bổ túc các thông điệp về Đức Ái và Đức
Cậy của Đức Bê-nê-đíc-tô XVI, và tiếp nối “công trình tốt đẹp” của Đức Giáo
Hoàng Hưu Trí - người đã “gần như hoàn tất” Thông Điệp về Đức Tin này. Và Đức
Thánh Cha Phan-xi-cô tự nhận mình như là người chỉ góp “thêm phần đóng góp” của
ngài vào “dự thảo đầu tiên” này mà thôi (Thông Điệp Ánh Sáng Đức Tin số 7).
Khi chuyển ngữ bức Thông Điệp này sang tiếng Việt,
Ban Biên Tập chúng tôi đã tham chiếu khá nhiều các bản văn bằng các ngôn ngữ khác nhau như Anh ngữ, Đức ngữ và La-tinh v.v. Đối
với các bản văn Kinh Thánh được sử dụng trong Thông Điệp này, khi chuyển ngữ
sang tiếng Việt, chúng tôi đã tham chiếu bản Kinh Thánh tiếng Việt của Nhóm Phụng
Vụ Các Giờ Kinh.
Sau đây là toàn văn bản dịch bức Thông Điệp.
THÔNG ĐIỆP
LUMEN FIDEI
ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ
GỬI CÁC GIÁM MỤC,
LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,
CÁC TU SĨ VÀ CÁC TÍN HỮU
1.Ánh sáng Đức tin: đây là cách thức mà truyền thống của Giáo Hội
nói về quà tặng vĩ đại mà Chúa Giê-su mang đến. Trong Tin Mừng của Thánh
Gio-an, Chúa Ky-tô đã tự nói về mình rằng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất
cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga.12,46). Thánh Phao-lô
cũng sử dụng một hình ảnh tương tự: “Quả
thật, xưa Thiên Chúa đã phán : Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng
làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2 Cr.4,6). Trong thế giới ngoại
giáo đói khát ánh sáng, sự tôn thờ thần mặt trời đã phát triển- Sol Invictus –
vị thần được cầu khẩn vào lúc bình minh. Ngay cả khi mặt trời được tái sinh vào
mỗi buổi sáng thì người ta vẫn có thể nhận thức một
cách rất rõ ràng rằng, mặt trời không có khả năng để chiếu rọi ánh sáng của nó
trên toàn bộ kiếp nhân sinh của con người. Mặt trời không chiếu sáng tất cả thực
tại; tia sáng của nó không thể thâm nhập vào bóng tối của sự chết, nơi mà con mắt
nhân loại bị khép lại trước ánh sáng của nó. “Không ai – Thánh Giút-ti-nô Tử đạo
viết – đã từng sẵn sàng chết vì niềm tin của mình vào mặt trời” [1]. Nhận thức
được chân trời bao la mà đức tin mở tra trước mắt mình, các Ky-tô hữu đã cầu khẩn
Chúa Giê-su như là mặt trời đích thực, “ánh sáng của Người ban tặng sự sống
[2]. Trước sự khóc thương của Mát-ta đối với cái chết của người em là La-za-rô,
Chúa Giê-su đã nói: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ
được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?" (Ga.11,40). Ai tin thì sẽ thấy,
người ấy thấy được ánh sáng chiếu tỏa trên toàn bộ cuộc hành trình của họ, bởi
vì ánh sáng ấy đến từ Chúa Ky-tô phục sinh, sao Mai không bao giờ lặn.
Phải
chăng Đó Là Một Thứ Ánh sáng Hão huyền?
2.Nhưng khi nói về ánh sáng đức tin, chúng ta có thể nghe thấy hầu
hết sự phản đối của nhiều người trong thời đại chúng ta. Trong xã hội hiện đại,
ánh sáng đó có thể được coi là đủ cho những xã hội xưa kia, nhưng bị cảm thấy
không còn sử dụng được nữa đối với xã hội tân thời, đối với một nhân loại đã
trưởng thành, tự hào về sự hợp lý của mình và nóng lòng khám phá tương lai theo
những cách thức mới lạ. Trong ý nghĩa này, đức tin xuất hiện như là một thứ ánh
sáng huyền ảo, cản bước con người trong việc dũng cảm để đi đến với những cấp độ
của sự hiểu biết. Lúc còn trẻ,
Nietzsche đã khuyến khích chị gái của mình là bà Elisabeth rằng, phải dám mạo
hiểm để tiến bước “trên những con đường mới” “trong sự bấp bênh của sự bước đi
một cách độc lập”. Và ông thêm vào: “Đây
là nơi mà những con đường của nhân loại bị chia rẽ: nếu bạn muốn cố đạt được sự
bình an của tâm hồn và hạnh phúc thì bạn hãy tin, nhưng nếu bạn muốn trở thành
môn đệ của chân lý, thì bạn hãy kiếm tìm” [3]. Đức tin sẽ không thể xung khắc với
sự kiếm tìm. Kể từ thời điểm đó, Nietzsche đã phát triển sự phê phán của ông đối
với Ky-tô giáo, điều làm giảm thiểu ý nghĩa đầy đủ về sự tồn tại của con người,
và tước đi sự mới lạ và phiêu lưu khỏi cuộc đời. Do vậy, đức tin sẽ trở nên đồng
nghĩa với một thứ ánh sáng huyễn hoặc, gây cản trở cho con đường của chúng ta
như là những con người tự do của tương
lai.
3.Trong tiến trình đó, đức tin được mang đến trong sự liên kết với
bóng tối ở điểm cuối. Có những người cố gắng cứu lấy đức tin bằng cách tạo ra một
không gian cho nó với ánh sáng của lý trí. Không gian đó sẽ mở ra bất kể ở nơi
nào mà ánh sáng của lý trí không thể chiếu rọi được, bất cứ nơi nào mà sự chắc
chắn không còn có thể tồn tại được nữa. Vì thế, đức tin được hiểu hoặc như là một
hành động liều lĩnh mạo hiểm được thực hiện trong sự vắng bóng của ánh sáng, được
điều khiển bởi thứ tình cảm mù quáng, hoặc là một thứ ánh sáng chủ quan, mà có
lẽ nó có khả năng làm ấm lòng và đem lại sự an ủi mang tính cá nhân, nhưng
không phải là thứ có thể được giới thiệu, được đưa ra cho người khác như là một
thứ ánh sáng khách quan cũng như được chia sẻ - tức thứ ánh sáng mà nó có thể
chiếu rọi trên những nẻo đường để bước đi. Tuy nhiên, chậm nhưng mà lại chắc,
nó sẽ trở nên hiển nhiên rằng, ánh sáng của lý trí không đủ để chiếu rọi tương
lai; cuối cùng thì tương lai vẫn còn là bóng tối và chứa đầy sợ hãi bởi những
điều chưa biết. Kết quả là, con người đã từ bỏ để không còn tìm kiếm một thứ
ánh sáng vĩ đại, Chân lý của chính nó, nhưng lại bằng lòng với những thứ ánh
sáng thấp kém hơn, thứ ánh sáng chỉ chiếu rọi được trong một khoảnh khắc tạm thời,
nhưng không thể chiếu rọi được đường đi. Lẽ dĩ nhiên, thiếu ánh sáng, mọi thứ đều
trở nên mù mờ; không thể nói về điều tốt lành từ những sự xấu xa, hoặc từ những
con đường dẫn chúng ta đến với những đích điểm khác, tức những con đường dẫn
chúng ta đi vào trong những vòng tròn vô định, luẩn quẩn, chẳng đến được nơi
đâu.
Một
thứ Ánh sáng Cần được Khám phá
4.Vì thế, có một sự cần thiết cấp bách để nhìn lại một lần nữa rằng,
đức tin là một thứ ánh sáng, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin đã tắt, thì tất cả
những thứ ánh sáng khác cũng đều bắt đầu trở nên mờ đi. Ánh sáng của đức tin là
độc nhất, bởi chỉ nó có khả năng chiếu rọi vào mọi khía cạnh của hữu thể con
người. Một thứ ánh sáng mà sức mạnh của nó không thể đến từ bản thân chúng ta
nhưng từ một nguồn cội uyên nguyên: nó đến từ Thiên Chúa. Đức tin được sinh ra
nhờ sự gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng Sống – Đấng đã kêu gọi chúng ta và tiết lộ
tình yêu của Ngài, một tình yêu đi trước chúng ta và nhờ đó chúng ta có thể an
tâm và xây dựng cuộc đời của chúng ta. Được biến đổi bằng tình yêu này, chúng
ta có được cái nhìn tươi mới, có được đôi mắt mới để nhìn; chúng ta nhận ra rằng,
nó chứa đựng một lời hứa vĩ đại về sự viên mãn và một cái nhìn về tương lai rộng
mở trước mắt chúng ta. Đức tin – tức điều mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa
như một ân ban siêu nhiên – trở thành một thứ ánh sáng cho con đường của chúng
ta, và hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc hành trình. Một mặt, nó là thứ ánh
sáng đến từ quá khứ, tức ánh sáng của sự tưởng niệm có tính nền tảng nơi cuộc đời
của Chúa Giê-su – Đấng đã tiết lộ tình yêu trọn hảo và đáng tin cậy, một tình
yêu có thể chiến thắng cả tử thần. Nhưng từ khi Chúa Ky-tô phục sinh và lôi kéo
chúng ta vượt qua sự chết, thì đức tin cũng là một thứ ánh sáng đến từ tương
lai và mở ra trước mắt chúng ta những chân trời rộng mở, dẫn chúng ta vượt lên
trên sự ích kỷ của mình để hướng về khoảng không rộng mở của sự hiệp thông.
Chúng ta đến để nhìn thấy rằng, đức tin không cư ngụ trong bóng tối và sự
u ám; nó là một thứ ánh sáng cho sự tăm tối của chúng ta. Nhà thơ Dante, trong
tác phẩm Hài Kịch của các Thần Thánh, sau khi đã tuyên xưng đức tin của mình
trước Thánh Phê-rô, đã miêu tả rằng, ánh sáng như là một “tia lửa, rồi trở lên
một ngọn lửa bừng cháy và giống như một ngôi sao, và từ chính ngôi sao này mà
tôi được chiếu sáng” [4]. Nó là thứ ánh sáng của đức tin mà tôi bây giờ muốn
xem xét, để nó có thể lớn lên và thắp sáng hiện tại, trở nên một vì sao để chiếu
sáng chân trời nơi chuyến hành trình của chúng ta tại một thời điểm khi mà con
người đặc biệt cần đến ánh sáng.
5.Chúa Ky-tô, trước đêm vượt qua của Ngài, đã đảm bảo với Thánh
Phê-rô rằng: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc.22,32).
Sau đó Ngài nói với Thánh nhân rằng, hãy làm cho anh chị em của anh nên vững mạnh
trong cùng một đức tin. Ý thức được nhiệm vụ đã được trao phó cho Người kế vị
Thánh Phê-rô, Đức Bê-nê-đic-tô XVI đã công bố Năm Đức Tin hiện nay, là thời
gian của hồng ân giúp chúng ta hiểu được niềm vui to lớn của đức tin và làm mới
sự ngạc nhiên của chúng ta nơi những chân trời rộng lớn mà đức tin đã mở ra, để
rồi tuyên xưng đức tin ấy trong sự hiệp nhất và toàn vẹn, trung tín với ký ức của
Thiên Chúa và được duy trì, nâng đỡ bằng sự hiện diện của Ngài và bằng hành động
của Chúa Thánh Thần. Sự xác tín được nảy sinh từ một niềm tin mà nó mang lại sự
vĩ đại và viên mãn cho cuộc đời, một niền tin được đặt trọng tâm vào Chúa Ky-tô
và vào sức mạnh của ân sủng Ngài, một niềm tin đã thôi thúc các Ky-tô hữu đầu
tiên thực hiện sứ vụ của mình. Trong sách Công vụ Tử đạo, chúng ta đọc được đoạn
đối thoại sau đây giữa Tổng trưởng Rô-ma Rusticus và một người Ky-tô hữu tên là
Hierax: “Bố mẹ của ông ở đâu”, quan tòa hỏi thánh nhân. Ngài trả lời:
“người Cha đích thực của chúng tôi là Chúa Ky-tô, và người mẹ đích thực của
chúng tôi là tin vào Ngài” [5]. Đối với các Ky-tô hữu sơ khai, đức tin - như là
một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng Sống được biểu lộ trong Chúa Ky-tô – quả thực
là một “người mẹ”, bởi nó mang lại ánh sáng cho họ, và trong ánh sáng ấy họ được
sinh ra trong cuộc sống thiêng liêng, một kinh nghiệm mới và một cái nhìn rõ
ràng về sự hiện hữu mà họ đã chuẩn bị để làm chứng cho công chúng cho đến tận
cùng.
6.Năm Đức Tin được khai mạc vào dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày khai
mạc Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Điều này tự nó là một sự biểu thị rõ ràng rằng,
Va-ti-ca-nô II là một Công Đồng về đức tin, [6] bởi vì nó yêu cầu chúng ta phải
hoàn trả lại địa vị đứng đầu của Thiên Chúa trong Đức Ky-tô đối với trung tâm đời
sống của chúng ta, cả hai như là một Giáo Hội và như những cá nhân. Giáo Hội
không bao giờ giả định đức tin như là một cái gì đó không cần giải thích, nhưng
nhận thức rằng, quà tặng này của Thiên Chúa cần được nuôi dưỡng và được tăng
trưởng để nó có thể tiếp tục hướng dẫn cuộc hành trình của mình. Công Đồng
Va-ti-ca-nô II đã làm cho ánh sáng đức tin có thể chiếu rọi vào sự hiện hữu của
con người từ bên trong, đồng hành với các người nam và người nữ trong thời đại
của chúng ta trong cuộc hành trình của họ. Điều đó đã chỉ rõ cho thấy đức tin
đang làm phong phú đời sống như thế nào trong mọi chiều kích của nó.
7.Những xem xét về đức tin – trong sự liên tục với tất cả những
điều mà quyền giáo huấn của Giáo Hội đã tuyên bố về nhân đức thần học này [7] –
có nghĩa là để bổ sung cho điều mà Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã viết trong các bức
thông điệp của ngài về Bác Ái và Hy Vọng. Chính ngài đã gần như hoàn
thành bản thảo đầu tiên của Thông Điệp về đức tin. Vì điều này, với sự biết ơn ngài một cách sâu sắc, và
như là một người em của ngài trong Chúa Ky-tô, tôi đã nhận lấy công trình tốt
lành của ngài và bổ sung một số đóng góp của chính tôi. Đấng Kế vị của Thánh
Phê-rô, ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai, vẫn luôn luôn được kêu gọi để làm
cho các anh chị em của mình thêm vững mạnh trong kho tàng vô giá của đức tin mà
Thiên Chúa đã tặng ban như là một ánh sáng cho con đường của nhân loại.
Trong đức tin – tức quà tặng của Thiên Chúa, một nhân đức siêu
nhiên, mà Thiên Chúa đã đổ xuống trên chúng ta - chúng ta nhận ra rằng, một
tình yêu vĩ đại đã được tặng ban cho chúng ta, một lời tốt lành đã được nói cho
chúng ta, và rằng khi chúng ta đón nhận lời ấy, tức Chúa Giê-su Ky-tô, Ngôi Lời
đã trở nên xác phàm, chúng ta được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần; Ngài thắp sáng
con đường tiến về tương lai của chúng ta và làm cho chúng ta vui mừng tiến theo
con đường hy vọng. Vì thế, sự hòa trộn kỳ diệu giữa đức tin, hy vọng và đức ái
sẽ là động lực trong đời sống của người Ky-tô hữu, bởi nó thúc đẩy và làm tiến
mau đến sự hiệp thông một cách trọn vẹn với Thiên Chúa. Nhưng con đường này sẽ
như thế nào đây khi mà đức tin mở nó ra trước mắt chúng ta? Đâu là nguồn gốc của
ánh sáng đầy sức mạnh này, mà với sức mạnh ấy nó có thể thắp sáng cuộc hành
trình của một đời sống sinh hoa kết trái và thành công?
CHƯƠNG I
CHÚNG
TA ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU ẤY
(x. 1 Ga. 4:16)
Ab-ra-ham, Người Cha của Đức Tin
8.Đức tin mở ra con đường trước chúng ta và đi cùng với những bước
chân của chúng ta trong suốt thời gian của chuyến hành trình. Vì thế, nếu chúng
ta muốn hiểu đức tin là gì, chúng ta cần đi theo lộ trình mà nó đã diễn ra, con
đường được bước đi bởi những người tin, như là những chứng nhân đầu tiên trong
Cựu Ước. Ở đây, một vị trí độc nhất thuộc về tổ phụ Ab-ra-ham, cha của những
người tin. Một số điều gây phiền toái đã diễn ra trong cuộc đời của ông: Thiên
Chúa nói với ông; Ngài tiết lộ chính Ngài là Thiên Chúa – Đấng đã nói và gọi
tên ông. Niềm tin được nối kết với việc được nghe thấy. Ab-ra-ham đã không nhìn
thấy Thiên Chúa, nhưng nghe thấy tiếng Ngài. Vì thế, đức tin diễn ra theo khía
cạnh cá nhân. Thiên Chúa không phải là một vị thần của một nơi cụ thể, hay một
vị thần liên quan đến thời gian linh thiêng cụ thể nào, nhưng Thiên Chúa của một
con người, Thiên Chúa của Ab-ra-ham, I-sa-ac và Ja-cob, có khả năng giao tiếp với
con người và thiết lập giao ước với họ. Đức tin chính là sự đáp trả lại một Lời
– mà Lời ấy lại là một sự xưng hô hoàn toàn mang tính cá nhân ở ngôi thứ hai –
Lời ấy kêu gọi đích danh chúng ta bằng chính tên gọi của chúng ta.
9.Lời được nói với Ab-ra-ham hàm chứa cả hai điều này: lời kêu gọi
và lời hứa. Thứ nhất, nó là một lời mời gọi ông rời khỏi xứ sở của mình, một lời
mời để đi đến với một cuộc sống mới, bắt đầu một cuộc xuất hành mà với nó ông
tiến về một tương lai không được biết trước. Sự nhìn thấy mà đức tin thường đem
lại cho Ab-ra-ham sẽ luôn được gắn liền với sự cần thiết để tiến bước về phía
trước: đức tin giúp “nhìn thấy” tới mức độ mà nó thực hiện một cuộc hành trình,
tới mức độ mà nó chọn để đi tới những chân trời được mở ra do lời mời của Thiên
Chúa. Lời này cũng chứa đựng một lời hứa: “Dòng dõi của ngươi sẽ trở nên đông
đúc, ngươi sẽ là cha của một dân tộc vĩ đại” (x. St.13,16; 15,5; 22,17). Khi
đáp trả lại lời đã nói với ông, niềm tin của Ab-ra-ham thường luôn là một hành
động của sự hồi tưởng. Nhưng sự hồi tưởng này không được cố định trong các sự
kiện của quá khứ, nhưng là sự nhớ lại một lời hứa, nó giúp người ta có thể mở
ra tương lai, tỏa ra ánh sáng trên con đường đi. Vì thế, chúng ta nhìn thấy đức
tin - như là một sự tưởng nhớ của tương lai, memoria
futuri – được gắn chặt
với niềm hy vọng như thế nào.
10.Ab-ra-ham được kêu gọi để phó thác chính mình vào lời này. Đức
tin hiểu được rằng, cái gì đó xem ra quá phù du và lướt nhanh như một lời nói,
khi được nói bởi Thiên Chúa – Đấng trung tín – sẽ trở nên tuyệt đối đáng tin cậy
và không thể lay chuyển, đảm bảo cho sự tiếp tục của chuyến hành trình của
chúng ta trong suốt lịch sử. Đức tin chấp nhận lời này như là một hòn đá tảng
mà trên đó chúng ta có thể xây dựng, một con đường thẳng mà ở trên đó chúng ta
có thể đi. Trong Kinh Thánh, từ đức tin được thể hiện bằng tiến Hebrew là ’emûnāh, bắt nguồn từ động
từ’amān mà nghĩa gốc của nó là "xác nhận". Thuật ngữ ’emûnāh có
thể hiểu là sự biểu thị hóa cả về sự trung tín của Thiên Chúa lẫn niềm tin của
con người. Con người của niềm tin có được sức mạnh bằng cách đặt bản thân
mình vào bàn tay của Thiên Chúa – Đấng trung tín. Việc sử dụng cả hai nghĩa của
từ này – cũng được tìm thấy ở các thuật ngữ tương ứng trong tiếng Hy-lạp (pistós)
và La-tinh (fidelis) – Thánh Xi-ril-lô thành Giê-ru-sa-lem đã ca ngợi phẩm
giá của người Ky-tô hữu, tức người nhận thấy tiếng của chính Thiên Chúa: cả hai
được gọi là “trung tín”. [8] Như thánh Au-gus-ti-nô giải thích: “Khi người nào
trung tín có nghĩa là khi người đó tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài; và
khi Thiên Chúa trung tín có nghĩa là khi Ngài ban tặng cho con người điều mà Ngài
đã hứa” [9].
11.Một
yếu tố cuối cùng trong câu truyện của Ab-ra-ham lại là điều quan trọng đối với
việc hiểu về niềm tin của ông. Lời của Thiên Chúa – trong khi mang lại sự mới mẻ
và ngạc nhiên – không xa lạ gì với kinh nghiệm của Ab-ra-ham. Trong tiếng nói với
ông, tổ phụ đã nhận ra một tiếng gọi sâu xa mà tiếng gọi ấy luôn luôn hiện diện
trong thâm tâm cũng như trong thể chất của con người ông. Thiên Chúa đã ràng buộc
lời hứa của Ngài với khía cạnh ấy của đời sống con người – tức đời sống mà lúc
nào cũng “đầy tràn lời hứa”, cụ thể là làm cha, làm cha của đời sống mới: “Sa-ra,
vợ ngươi, sẽ sinh cho ngươi một người con, và ngươi sẽ đặt tên nó là I-sa-ac”
(St.17,19). Thiên Chúa, Đấng đòi hỏi Ab-ra-ham phải hoàn toàn đặt niềm tin vào
Ngài, đã mặc khải chính mình là nguồn mạch của mọi sự sống. Vì thế, đức tin được
nối kết với cương vị làm cha của Thiên Chúa, cương vị ấy đã thực hiện tất cả cuộc
sáng tạo; Thiên Chúa, Đấng kêu gọi Ab-ra-ham là Đấng Tạo Hóa, Đấng “khiến những
gì không có hoá có” (Rm. 4,17), Đấng “đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ
trụ, đã tiền định cho ta làm nghĩa tử” (Ep. 1,4-5). Đối với Ab-ra-ham, niềm tin
vào Thiên Chúa đã chiếu rọi ánh sáng trên sự sâu thẳm của con người ông, nó làm
cho ông có thể nhận ra nguồn mạch của sự thiện nơi nguồn gốc của tất cả mọi thứ,
và có thể nhận ra rằng cuộc đời của ông không phải là sản phẩm của sự không tồn
tại hoặc tình cờ, nhưng là kết quả của một tiếng gọi đích thân và một tình yêu
riêng tư. Thiên Chúa nhiệm mầu, Đấng đã gọi ông không phải là một vị thần xa lạ,
nhưng là Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và là điểm tựa của tất cả mọi loài mọi vật.
Cuộc thử thách vĩ đại trên niềm tin của Ab-ra-ham – sát tế con trai của ông là
I-sa-ac, đã cho thấy mức độ của tình yêu nguyên thủy mà nhờ đó nó có khả năng đảm
bảo để sự sống vượt qua cái chết. Lời có thể nâng một người con “hầu như đã chết”
trong dạ bà Sa-ra (x. Rm. 4, 19), để trở thành một người có thể đứng vững bởi lời
hứa cho một tương lai vượt qua mọi đe dọa hoặc nguy hiểm (x. Heb. 11,19; Rm.
4,21).
Niềm tin của Dân Is-ra-el
12.Lịch
sử của dân Is-ra-el trong Sách Xuất Hành theo sau niềm tin của Ab-ra-ham. Đức
tin một lần nữa được sản sinh từ một món quà nguyên thủy: Dân Is-ra-el tín thác
vào Thiên Chúa, Đấng đã hứa cứu dân Người khỏi khổ đau. Niềm tin trở nên một lời
mời gọi cho một cuộc hành trình dài dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa trên núi
Si-nai và thừa hưởng một vùng đất hứa. Tình yêu của Thiên Chúa được xem như là
tình yêu của một người cha, tức người ẵm bế đứa con của mình trên đường đi (x.
Dt. 1,31). Sự tuyên xưng niềm tin của dân Israel đã thành hình như là một bản kê khai các việc làm của Thiên Chúa trong việc cứu
dân Người thoát khỏi ách nô lệ, và đóng vai trò như là sự hướng dẫn của họ (x
Dt.26,5-11), một bản kê khai được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ánh
sáng của Thiên Chúa chiếu rọi cho dân Is-ra-el qua sự tưởng nhớ những việc làm
đầy quyền năng của Thiên Chúa, hồi tưởng và làm lễ kỷ niệm bằng sự tôn thờ, và
truyền lại từ đời cha đến đời con. Ở đây chúng ta thấy ánh sáng đức tin được nối
liền với các câu truyện trong đời sống thực tế như thế nào, được nối kết với sự
tưởng nhớ biết ơn đối với các việc làm đầy quyền năng của Thiên Chúa và sự thực
hiện từ từ các lời hứa của Người. Kiến trúc Gô-thíc đã miêu tả rõ về điều này:
trong các nhà thờ lớn, ánh sáng chiếu từ trên trời xuống bằng cách đi xuyên qua
các cửa sổ mô tả về lịch sử cứu độ. Ánh sáng của Thiên Chúa đến với chúng ta
thông qua bảng kê khai của sự tự mặc khải của Ngài, và vì thế trở nên có thể
chiếu rọi vào cuộc hành trình của chúng ta qua dòng thời gian bằng việc nhớ lại
những món quà của Ngài và chỉ cho thấy những lời hứa của Ngài được thực hiện thế
nào.
13.Lịch
sử của dân Is-ra-el cũng chỉ cho chúng ta thấy về cơn cám dỗ thiếu niềm tin mà
dân Người đã hơn một lần từng vấp phải. Ở đây, sự đối nghịch với niềm tin được
thể thiện là sự thờ ngẫu tượng. Trong khi Mô-sê đang nói chuyện với Thiên Chúa ở
trên núi Si-nai, thì dân Người đã không thể chịu đựng được sự huyền nhiệm nơi sự
ẩn mình của Thiên Chúa, họ không thể chịu đựng được thời gian chờ đợi để nhìn
thấy mặt Ngài. Niềm tin bởi bản chất tự nhiên của nó đòi hỏi sự từ bỏ những sở
hữu trước mắt do con mắt đem lại; nó là một lời mời gọi quay về nguồn ánh sáng,
trong khi kính trọng màu nhiệm dung nhan, tức điều sẽ tự mặc khải nơi sự riêng
tư vào một thời điểm thuận lợi và tốt lành của chính nó. Martin Buber có lần đã
trích một định nghĩa về sự sùng bái ngẫu tượng của một giáo sĩ Do thái tên là Kock
như sau: sự sùng bái ngẫu tượng là “khi một khuôn mặt hướng về một khuôn mặt mà
nó không phải là một khuôn mặt”. [10]
Thay vì tin tưởng vào Thiên Chúa, thì người ta lại ưa thích tôn thờ ngẫu tượng,
điều mà người ta có thể nhìn thấy khuôn mặt, bởi vì nó được tạo ra bởi chính
chúng ta. Trước một ngẫu tượng, chẳng có sự rủi ro nào mà chúng ta được kêu gọi
để từ bỏ sự an nguy của chúng ta, đối với các ngẫu tượng “có mồm, nhưng không
thể nói” (Tv 115:5). Chúng ta bắt đầu nhìn thấy rằng, ngẫu tượng vẫn tồn tại,
và đó được coi như là một cái cớ để đặt bản thân chúng ta vào trong trung tâm của
thực tại và tôn thờ những tác phẩm của chính bàn tay chúng ta. Khi con người đã
đánh mất phương hướng nền tảng, mà phương hướng ấy tạo nên sự thống nhất cho cuộc
sống của họ, người ấy đã tự đánh mất chính mình trong chính những thèm muốn
không cùng của mình; trong việc chờ đợi thời gian của lời hứa, lịch sử cuộc đời
của người đó sẽ phân rã thành vô số những khoảnh khắc rời rạc. Vì thế, sự sùng
bái ngẫu tượng luôn luôn là chủ nghĩa đa thần, một sự sang nhượng vô mục đích,
vu vơ từ thần nọ sang thần kia. Sùng bái ngẫu tượng không đem lại một cuộc hành
trình nhưng tạo ra một trạng thái dư thừa các con đường không dẫn đến bất cứ một
nơi nào, và tạo ra một mê hồn trận rộng lớn. Những người không chọn để đặt niềm
tin của mình vào Thiên Chúa sẽ phải nghe thấy tiếng ầm ĩ hỗn loạn kéo dài bởi
những tiếng kêu gào của vô số các thần tượng: “đừng tin vào tôi!” Đức tin, được
ràng buộc như là sự cải tâm, là sự trái ngược với sự sùng bái ngẫu tượng; nó
phá bỏ các thần tượng để trở về với Thiên Chúa Hằng Sống trong một cuộc gặp gỡ
thân mật. Tin có nghĩa là trao phó bản thân chúng ta cho một tình yêu đầy
thương xót, tức tình yêu luôn chấp nhận và tha thứ, tình yêu nâng đỡ và hướng dẫn
đời sống của chúng ta, tình yêu chỉ ra sức mạnh của nó bằng khả năng có
thể làm nên một đường thẳng trên con đường cong queo của lịch sử chúng ta. Đức
tin bao gồm sự thiện chí để bản thân chúng ta không ngừng được Thiên Chúa biến
đổi và canh tân bằng tiếng gọi của Ngài. Ở đây có sự nghịch lý: bằng cách không
ngừng hướng về Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ khám phá ra một con đường chắc chắn
– con đường dẫn chúng ta thoát khỏi sự chết bởi các ngẫu tượng áp đặt lên chúng
ta.
14.Trong
niềm tin của Dân Is-ra-el chúng ta cũng gặp thấy hình ảnh của Mô-sê, một người
trung gian. Dân Người có thể không nhìn thấy mặt Thiên Chúa; Nhưng Mô-sê là người
đã nói với Thiên Chúa (YHWH) trên núi và sau đó nói lại cho người khác ý định của
Thiên Chúa. Với sự hiện diện của một người trung gian ở giữa, dân Is-ra-el học
được cách đi cùng nhau trong sự hiệp nhất. Hành động đức tin của cá nhân tìm thấy
vị trí của nó trong một cộng đồng, trong đại từ chung “chúng tôi” của Dân Ngài,
tức dân mà trong niềm tin, đã giống như một con người đơn lẻ - ‘đứa con đầu
lòng của Ta”, khi Thiên Chúa mô tả tất cả Dân Is-ra-el (x Xh. 4,22). Sự trung
gian ở đây không phải là một trở ngại, nhưng là một lối mở: thông qua sự gặp gỡ
của chúng ta với những người khác, cái nhìn của chúng ta hướng tới một sự thật
còn lớn lao hơn cả bản thân chúng ta. Rousseau đã từng kêu than rằng, ông đã
không thể nhìn thấy Thiên Chúa vì chính bản thân mình: “Có biết bao nhiêu người
đứng ở giữa Thiên Chúa và tôi! [11]… “Điều đó có thực sự đơn giản và tự nhiên rằng,
Thiên Chúa hẳn sẽ phải đi tìm kiếm Mô-se để nói cho Jean Jacques Rousseau không?” [12] Trên cơ sở một khái niệm
có tính chất cá nhân và nhỏ hẹp, một người không thể đánh giá được tầm quan trọng
của sự trung gian, khả năng này để đánh giá trong cái nhìn của người khác, kiến
thức được chia sẻ này là kiến thức thích hợp để yêu thương. Đức tin là quà tặng
nhưng không của Thiên Chúa, quà tặng ấy kêu gọi con người và sự dũng cảm để đặt
niềm tin và trao phó; nó có thể làm cho chúng ta nhìn thấy con đường đầy ánh
sáng dẫn đến sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người: lịch sử cứu độ.
Sự Tròn
đầy của Đức tin Ky-tô giáo
15.“Ông
Áp-ra-ham là cha của các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của
tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ." (Ga.8,56). Theo những lời này của Chúa
Giê-su, lòng tin của Ab-ra-ham đã chỉ cho ông thấy; theo một nghĩa nào đó nó thấy
trước được màu nhiệm của Ngài. Nên Thánh Au-gus-ti-nô đã hiểu nó khi tuyên bố rằng,
các tổ phụ được cứu độ bởi lòng tin, không phải niềm tin nơi Đức Ky-tô – Đấng
đã đến, nhưng nơi Đức Ky-tô đấng sẽ đến, một niềm tin thúc giục hướng về tương
lai của Chúa Giê-su [13]. Đức tin của người Ky-tô hữu được đặt trọng tâm vào Chúa
Ky-tô; nó là sự tuyên xưng rằng, Chúa Giê-su là Chúa, và rằng Thiên Chúa đã cho
Người sống lại từ cõi chết (x. Rm.10,9). Toàn bộ Cựu Ước đều đồng quy về Chúa
Ky-tô; Ngài trở nên từ “Có” cuối cùng, dứt khoát cho mọi lời hứa, nền tảng cơ bản
của từ thưa “Amen” của chúng ta với Thiên Chúa (x. 2Cr.1,20). Cuộc đời của Chúa
Giê-su là biểu lộ trọn vẹn sự đáng tin cậy của Thiên Chúa. Nếu Dân Is-ra-el tiếp
tục hồi tưởng lại các hành động yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa, tức điều đã tạo
nên cốt lõi của sự tuyên xưng đức tin và được trải rộng bởi cái nhìn của nó
trong đức tin, thì cuộc đời của Chúa Giê-su bây giờ trở nên như là địa điểm của
sự can thiệp cuối cùng, dứt khoát của Thiên Chúa, sự biểu lộ cao nhất về tình
yêu của Ngài đối với chúng ta. Lời Thiên Chúa nói với chúng ta trong Chúa
Giê-su không phải là một lời đơn giản như mọi lời, nhưng là Lời vĩnh hằng của
Ngài (x. Heb.1,1-2). Thiên Chúa có thể không ban cho chúng ta sự đảm bảo nào vĩ
đại hơn được nữa về tình yêu của Ngài (x. Rm.8,31-39). Vì thế, niềm tin của
Ky-tô giáo là niềm tin vào một tình yêu hoàn hảo, trong sức mạnh mang tính quyết
định của nó, trong khả năng biến đổi thế giới này và mở ra lịch sử của nó.
“Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu
đó” (1Ga.4,16). Trong tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giê-su, đức
tin nhận được nền tảng mà trên đó mọi thực tại và số phận của nó được đặt lên.
16.Bằng
chứng rõ nét nhất về sự đáng tin cậy nơi tình yêu của Chúa Ky-tô đó là điều được
tìm thấy trong cái chết của Ngài vì chúng ta. Không có tình yêu nào cao quý hơn
tình yêu của người thí mạng sống mình cho người mình yêu (x. Ga.15,13), chính
Chúa Giê-su đã dâng hiến chính mạng sống của Ngài cho tất cả, thậm chí cho cả kẻ
thù của Ngài, để biến đổi con tim họ. Điều này giải thích cho thấy tại sao các
nhà truyền giáo có thể coi giờ Chúa Giê-su bị treo trên thập giá là đỉnh điểm của
cái nhìn đức tin; trong giờ ấy, chiều sâu và chiều rộng của Thiên Chúa được chiếu
tỏ. Nên nhờ đó mà Thánh Gio-an đã đưa ra lời chứng rất quan trọng, khi ngài
cùng với Đức Ma-ri-a - Mẹ Chúa Giê-su nhìn lên Đấng đã bị đâm thâu (x
Ga.19,37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác
thực; và người ấy biết mình nói sự thật” (Ga.19,35). Trong tác phẩm Thằng ngốc
của Dostoevsky, Hoàng tử Myshkin nhìn thấy một bức tranh của Hans Holbein, mà ở
đó người em út miêu tả về cái chết của Chúa
Ky-tô trong mồ và nói: “nhìn vào bức tranh đó có thể làm cho một người mất
đức tin của mình” [14]. Bức tranh là một bức chân dung khủng khiếp về các động
tác phá hủy của sự chết trên thân thể của Chúa Ky-tô. Nhưng chính trong sự suy
niệm về cái chết của Chúa Giê-su mà đức tin được lớn lên mạnh mẽ hơn và nhận được
ánh sáng chiếu rọi; nên nó được biểu lộ như là niềm tin vào tình yêu kiên định
của Chúa Ky-tô dành cho chúng ta, một tình yêu có thể nhận lấy sự chết để mang
ơn cứu độ đến cho chúng ta. Tình yêu này – tức tình yêu đã không chùn bước trước
cái chết để chỉ ra chiều sâu của nó – là điều tôi có thể tin vào; toàn bộ món
quà của Chúa Ky-tô tự nó đã vượt thắng mọi nghi ngờ và làm cho tôi có thể trao
phó hoàn toàn bản thân mình cho Ngài.
17.Cái
chết của Chúa Ky-tô đã phơi bày sự đáng tin cậy tuyệt đối của tình yêu Thiên
Chúa trên tất cả trong ánh sáng nơi sự phục sinh của Ngài. Là người đã sống lại,
Chúa Ky-tô trở nên nhân chứng đáng tin cậy, đáng để tin (x Rev.1,5; Heb.2,17),
và là một sự hỗ trợ vững chắc cho niềm tin của chúng ta. “Nếu Chúa Ky-tô không
sống lại, thì niềm tin của anh em là vô ích, phù phiếm” - Thánh Phao-lô đã nói
như thế (1 Cr.15,17). Nếu tình yêu của Chúa Cha không làm cho Chúa Giê-su chỗi
dậy từ cõi chết, nếu không thể phục hồi sự sống cho thân xác của Ngài, thì sẽ
không có một tình yêu nào hoàn toàn đáng tin cậy, cũng không có khả năng chiếu
rọi vào bóng tối của sự chết. Khi Thánh Phao-lô mô tả sự sống mới của ngài
trong Chúa Ky-tô, Thánh nhân nói về “niềm tin vào Con Thiên Chúa – Đấng đã yêu
thương tôi và trao phó chính mình Ngài cho tôi” (Gal.2,20). Rõ ràng, “niềm tin
vào Con Thiên Chúa” này có nghĩa là niềm tin của Thánh Phao-lô vào Chúa Giê-su,
nhưng chính bản thân của Chúa Giê-su cũng được coi như là điều đáng để tin, niềm
tin ấy không chỉ dựa trên chính việc Ngài đã yêu chúng ta, thậm chí yêu đến chết,
mà còn dựa trên tư cách làm Con Thiên Chúa của Ngài. Bởi vì Chúa Giê-su thực sự
là Người Con, và bởi vì Ngài tuyệt đối được sinh ra từ Thiên Chúa Cha, Ngài có
thể chinh phục sự chết và có thể chiếu tỏa ánh sáng một cách tròn đầy trên sự sống
. Nền văn hóa của chúng ta đã đánh mất đi khả năng nhận thức về sự hiện diện hữu
hình và họat động của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng,
Thiên Chúa sẽ chỉ được tìm thấy ở nơi thế giới bên kia, trên một mức độ khác của
thực tại, đã bị loại bỏ xa khỏi các mối quan hệ hằng ngày của chúng ta. Nhưng nếu
điều này thực sự xảy ra, và nếu Thiên Chúa đã không thể hành động trong thế giới
này, thì tình yêu của Ngài sẽ không có sức mạnh thực sự, không có thực, không
có một tình yêu nào có thể đem lại hạnh phúc như Ngài đã hứa. Sẽ chẳng có sự
khác nhau gì cả giữa việc chúng ta tin hay không tin vào Ngài. Trái lại, người
Ky-tô hữu tuyên xưng niềm tin của mình vào tình yêu đầy sức mạnh và hiện hữu của
Thiên Chúa, tình yêu ấy thực sự tác động trong lịch sử và quyết định số phận cuối
cùng của nó: một tình yêu mà nó có thể gặp thấy được, một tình yêu được biểu lộ
một cách trọn vẹn thông qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa
Ky-tô.
18.Sự
trọn vẹn mà Chúa Giê-su đã mang lại cho niềm tin còn có một khía cạch mang tính
quyết định khác. Trong đức tin, Chúa Ky-tô không đơn giản là một Đấng mà chúng
ta đặt niềm tin vào, như là sự biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa,
nhưng Ngài còn là Đấng mà với Ngài chúng ta được liên kết với nhau để có thể
tin. Đức tin không chỉ là việc nhìn vào Chúa Giê-su, nhưng còn là nhìn thấy những
điều như chính Chúa Giê-su đã nhìn thấy, bằng đôi mắt của chính Ngài: nó là một
sự tham dự vào cách nhìn của Ngài. Trong nhiều lĩnh vực của đời sống chúng ta,
chúng ta tin tưởng vào những người biết nhiều hơn chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào
kiến trúc sư khi ông ta xây dựng ngôi nhà của chúng ta, tin tưởng vào thầy thuốc
khi ông ta cho chúng ta thuốc để chữa trị, tin tưởng vào luật sư khi ông bảo vệ
chúng ta nơi tòa án. Chúng ta cũng cần đến những người đáng tin cậy và có khả
năng hiểu biết về những công việc của Thiên Chúa. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, chính là
người có thể làm cho chúng ta nhận biết được Thiên Chúa (x. Ga.1,18). Cuộc đời
của của Chúa Ky-tô, cách thức nhận biết Thiên Chúa Cha của Ngài, cũng như cuộc
sống trong mối tương quan hiệp thông trọn vẹn và không ngừng với Thiên Chúa Cha
đã mở ra các khung trời mới và hấp dẫn đối với sự hiện hữu của con người. Thánh
Gio-an đã nêu rõ tầm quan trọng của mối quan hệ thân mật và riêng tư với Chúa
Giê-su đối với đức tin của chúng ta, bằng cách sử dụng các cấu trúc khác nhau của
động từ “tin”. Bên cạnh cụm từ “tin rằng” điều Chúa Giê-su đã nói với chúng ta
là thực, Thánh Gio-an cũng nói về “tin” Chúa Giê-su và “tin vào” Chúa Giê-su.
Chúng ta “tin” Chúa Giê-su khi chúng ta chấp nhận lời của Ngài, lời chứng của
Ngài, bởi vì Ngài chân thật. Chúng ta “tin vào” Chúa Giê-su khi chúng ta đích
thân đón tiếp Ngài đi vào cuộc đời của chúng ta và tiến bước về phía Ngài, bám
vào Ngài trong tình yêu và bước theo những bước chân của Ngài trên mọi nẻo đường.
Để làm chúng ta có thể nhận biết, chấp nhận và theo Ngài, Con
Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm. Theo cách này Ngài cũng đã nhìn thấy Chúa Cha với
cung cách con người, trong sự thiết lập một cuộc hành trình được mở ra trong thời
gian. Đức tin Ky-tô giáo là niềm tin vào sự hiện thân của Ngôi Lời và sự phục
sinh thân xác của Ngài; nó là niềm tin vào một Thiên Chúa, Đấng gần gũi chúng
ta đến nỗi Ngài đã đi vào trong lịch sử của nhân loại chúng ta. Không những
không tách chúng ta ra khỏi thực tại, mà đức tin của chúng ta vào Con Thiên
Chúa - Đấng đã trở thành người phàm nơi Chúa Giê-su Na-za-rét – làm cho chúng
ta có thể hiểu thấu được ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại và nhận ra Thiên Chúa
đã yêu thế giới này biết dường nào và không ngừng hướng dẫn nó tiến về chính
Ngài. Điều này làm chúng ta – những người Ky-tô hữu – sống cuộc đời của chúng
ta trong thế giới này với sự tận tâm và sức mạnh lớn hơn bao giờ hết.
Cứu độ nhờ Đức tin
19.Trên
cơ sở của sự chia sẻ này trong cách nhìn mọi thứ của Chúa Giê-su, Thánh Phao-lô
đã để lại cho chúng ta một sự miêu tả về đời sống đức tin. Trong việc chấp nhận
quà tặng đức tin, các tín hữu trở nên một sự sáng tạo mới; trở thành tạo
vật mới; với tư cách là con cái của Thiên Chúa, giờ đây họ trở thành “những người
con trong Con Thiên Chúa”. Cụm từ “Abba, Cha ơi”, cũng là nét đặc trưng trong
kinh nghiệm của chính Chúa Ky-tô, giờ đây trở nên trung tâm điểm nơi những kinh
nghiệm của người Ky-tô hữu (x. Rom.8,15). Đời sống đức tin - như là cuộc sống của
đạo làm con – là sự thừa nhận một món quà nguyên thủy và triệt để trong sự nâng
đỡ và duy trì đời sống của chúng ta. Chúng ta nhận thấy rõ điều này trong câu hỏi
của Thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Cô-rin-tô: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận
lãnh?” (1Cr.4,7). Điều này nằm ngay ở trung tâm điểm của cuộc tranh luận giữa
Thánh Phao-lô và người Pha-ri-siêu: vấn đề là, ơn cứu độ có được là nhờ vào lòng
tin hay nhờ vào công việc của lề luật? Thánh Phao-lô đã không chấp nhận thái độ
của những người tự coi mình là công chính trước mặt Thiên Chúa dựa trên cơ sở
các công việc của chính họ.
Những người như thế, thậm chí khi họ tuân theo các giới răn và làm
những việc lành thánh, đã tự đặt mình vào vị trí trung tâm; họ đã không nhận ra
được sự thiện đến từ Thiên Chúa. Ai hành động như thế, ai muốn tự coi mình như
là nguồn mạch sự công chính của chính mình, người ấy sẽ có kinh nghiệm rằng,
nguồn mạch đến từ chính họ sẽ mau chóng cạn kiệt, và phát hiện ra rằng, thậm
chí họ không còn có thể giữ được lòng trung thành với lề luật. Họ trở nên khép
kín, đóng mình lại, tách ra khỏi Thiên Chúa và tha nhân; đời sống của họ trở
nên vô ích, phù phiếm và công việc của họ không sinh hoa kết trái, giống như một
cái cây thiếu nước. Thánh Au-gus-ti-nô đã diễn tả bằng một ngôn ngữ đầy xúc
tích nhưng cũng đầy ấn tượng như sau: “Đừng ngoảnh mặt đi với Đấng đã tạo dựng
nên bạn, nhưng thậm chí hãy ngoảnh lại với chính bản thân bạn” [15]. Khi tôi
nghĩ rằng, bằng cách ngoảnh mặt đi với Thiên Chúa, tôi sẽ tìm thấy chính mình,
thì cuộc đời của tôi đã bắt đầu vỡ ra từng mảnh (Lc.15,11-24). Sự bắt đầu của
ơn cứu độ là sự mở ra cho những thứ trước bản thân chúng ta, trước món quà
nguyên thủy đảm bảo cho đời sống của chúng ta và giúp nó tồn tại. Chỉ bằng cách
mở ra và thừa nhận món quà này thì chúng ta mới có thể được biến đổi, kinh nghiệm
được cứu độ và sinh hoa trái thánh thiện. Cứu độ nhờ đức tin có nghĩa là thừa
nhận nguồn cội nơi những ân ban của Thiên Chúa. Như Thánh Phao-lô đã nói:
“Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức
anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep.2,8).
20.Cách
nhìn mới của đức tin thể hiện trong việc nhìn thấy những thứ được đặt trọng tâm
vào Chúa Ky-tô. Niềm tin vào Chúa Ky-tô mang lại ơn cứu độ bởi vì trong Ngài cuộc
đời chúng ta được mở ra hoàn toàn cho một tình yêu đi trước chúng ta, một tình
yêu biến đổi chúng ta từ bên trong, tác động trong chúng ta và thông qua chúng
ta. Điều này được nhìn thấy trong sự chú giải của Thánh Phao-lô về đoạn văn
trích từ sách Đệ Nhị Luật, một sự chú giải phù hợp với sứ điệp cốt lõi của Cựu
Ước. Mô-sê đã nói với dân rằng, mệnh lệnh của Thiên Chúa không ở quá cao cũng
không ở quá xa. Không cần nói: “Ai sẽ đi lên trời và mang nó xuống cho chúng
ta?” hoặc “Ai sẽ băng qua biển để mang nó đến cho chúng tôi?” (Dt.30,11-14).
Thánh Phao-lô đã giải thích sự gần gũi này của Lời Thiên Chúa về sự hiện diện của
Chúa Ky-tô nơi người Ky-tô hữu. “Đừng tự hỏi: ai sẽ lên trời ? ngụ ý là : để
đem Chúa Ki-tô xuống. Cũng đừng hỏi : Ai sẽ xuống âm phủ ? ngụ ý là : để đưa
Chúa Ki-tô lên từ cõi chết” (Rm.10,6-7). Chúa Ky-tô xuống trần gian và chỗi dậy
từ cõi chết; bằng sự nhập thể và phục sinh, Con Thiên Chúa đã ôm lấy toàn thể sự
sống và lịch sử của nhân loại, và giờ đây cư ngụ trong con tim của chúng ta
thông qua Thần Khí. Đức tin biết rằng Thiên Chúa đã lôi kéo chúng ta đến sự gần
gũi với Ngài, rằng Chúa Ky-tô đã được ban tặng cho chúng ta như là một món quà
vĩ đại làm biến đổi chúng ta từ bên trong, cư ngụ giữa chúng ta và vì thế ban tặng
cho chúng ta ánh sáng chiếu rọi sự khởi đầu và kết thúc của sự sống.
21.Chúng
ta đến để nhìn thấy sự khác biệt mà đức tin đã mang lại cho chúng ta. Ai tin
thì sẽ được biến đổi bởi tình yêu mà họ đã mở lòng mình ra trong đức tin. Bằng
sự mở lòng mình ra cho tặng phẩm của tình yêu tận căn này, đời sống của họ được
lớn lên và trải rộng. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô
sống trong tôi” (Gal. 2,20). “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Chúa Ki-tô ngự
trong tâm hồn” (Ep. 3,17). Sự tự nhận thức của người tín hữu giờ đây được mở rộng
bởi vì sự hiện diện của người khác; giờ đây nó sống trong người khác, và vì thế,
trong tình yêu, sự sống nhận thêm một chiều kích hoàn toàn mới. Ở đây chúng ta
nhìn thấy Chúa Thánh Thần trong công trình của Ngài. Người Ky-tô hữu có thể
nhìn bằng đôi mắt của Chúa Giê-su và chia sẻ trong suy nghĩ của mình, trong tâm
tình làm con, bởi vì người Ky-tô hữu chia sẻ trong tình yêu của mình, đó là Thần
Khí. Trong tình yêu của Chúa Giê-su, chúng ta nhận được cái nhìn của Ngài theo
một phương cách chắc chắn. Không tuân theo Ngài trong tình yêu, không có sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần, thì không thể tuyên xưng Ngài là Chúa (x. 1 Cr. 12,3).
Hình thức Đức tin của Ky-tô giáo
22.Theo
cách này, đời sống của người tín hữu trở nên một đời sống Ky-tô giáo, một đời sống
được sống trong Giáo Hội. Khi Thánh Phao-lô nói với các Tín hữu Rô-ma rằng, tất
cả những người tin vào Chúa Ky-tô thì tạo nên một thân thể, ngài thúc giục họ
không khoe khoang điều này; nhưng mỗi người phải nghĩ về chính mình “mỗi người
tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (Rm. 12,3). Ai tin thì sẽ đến
để nhìn thấy chính họ trong ánh sáng của niềm tin mà họ đã tuyên xưng: Chúa
Ky-tô là tấm gương mà trong đó họ tìm thấy hình ảnh của chính họ được biểu lộ một
cách đầy đủ. Và như Chúa Ky-tô quy tụ lại với Ngài tất cả những người tin, và
làm thành thân thể của Ngài, vì thế người Ky-tô hữu đến để nhìn thấy chính mình
như là một chi thể của thân thể này, trong mối tương quan Ky-tô giáo với tất cả
các tín hữu khác. Hình ảnh về một thân thể không có ý ám chỉ rằng người tín hữu
chỉ đơn giản là một phần của một cái tổng thể vô danh, chỉ là một chi tiết
trong một cỗ xe lớn; mà là thể hiện sự hiệp thông thiết yếu của Chúa Ky-tô với
các tín hữu và của các tín hữu với nhau (x. Rm.12,4-5). Người Ky-tô hữu là “một”
(x. Gal. 3:28), nhưng theo cách thức không làm cho họ đánh mất đi tính cách
riêng tư của mình; trong sự phục vụ người khác, họ đi vào chính họ ở mức độ cao
nhất. Điều này giải thích tại sao, ở ngoài thân thể này, ở bên ngoài sự hiệp nhất
này của Giáo Hội trong Chúa Ky-tô, và ở bên ngoài Giáo Hội này - theo lời của Romano Guardini – “là người mang
trong lịch sử cái nhìn toàn thể của Chúa Ky-tô đối với thế giới” [16] – thì đức
tin đã mất đi “trọng lượng” của nó; nó không còn tìm thấy trạng thái quân bình
của nó nữa, tức khoảng cách cần để duy trì chính nó. Đức tin nhất thiết phải
mang tính Giáo Hội; nó được tuyên xưng từ bên trong thân thể của Chúa Ky-tô như
là một sự hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Chính từ nơi Giáo Hội mà đức tin
làm cho các Ky-tô hữu riêng lẻ mở tâm lòng mình ra cho toàn thể nhân loại. Lời được
nghe của Chúa Ky-tô tự chuyển hóa thông qua động thái riêng của chính Lời ấy
bên trong các Ky-tô hữu, trở nên một sự đáp trả, một lời được nói, một sự tuyên
xưng đức tin. Như Thánh Phao-lô viết: “có tin thật trong lòng, .. ; có xưng ra
ngoài miệng, …” (Rm.10,10). Đức tin không phải là một vấn đề cá nhân, một quan điểm hoàn
toàn mang đặc tính cá nhân hay một ý kiến cá nhân: nó đến từ sự nghe thấy, và
nó có nghĩa là tìm thấy sự thể hiện bằng lời và được loan truyền. Bởi vì “làm sao
họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao
mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm.10,14). Đức tin trở nên đang hoạt động
trong người Ky-tô hữu trên cơ sở ân ban mà họ đã nhận được, tình yêu hấp dẫn
con tim của chúng ta đến với Chúa Ky-tô (x. Gal5, 6), và làm cho chúng ta có thể
trở nên một phần trong cuộc hành trình vĩ đại của Giáo Hội suốt dòng lịch sử
cho tến tận cùng thế giới. Đối với những người được biến đổi theo cách này, một
cái nhìn mới sẽ mở ra, đức tin trở nên ánh sáng cho đôi mắt của họ.
CHƯƠNG II
NẾU CÁC NGƯƠI KHÔNG TIN
THÌ CÁC NGƯƠI SẼ KHÔNG THỂ HIỂU
(x. Is. 7,9)
Đức tin và Chân lý
23.Nếu
các ngươi không tin tin thì các
ngươi sẽ không thể hiểu được (x.
Is.7,9). Câu này được rút ra từ bản dịch của cuốn Kinh Thánh bằng tiếp Híp-ry
sang tiếng Hy-lạp, bản dịch này được giới thiệu ở A-lex-and-ri-a Ai-cập với tên
gọi là Bản Bảy Mươi, đã dịch lại các lời của Tiên tri I-sa-i-a nói với vua
A-chas. Theo cách dịch này, vấn đề hiểu biết chân lý trở nên trung tâm của đức
tin. Trong bản văn bằng tiếng Híp-ry, mặc dù được đọc bằng những cách khác
nhau; Vị Tiên tri đã nói với vua rằng: “Nếu các ngươi không vững tin, thì các
ngươi sẽ không đứng vững.”. Ở đây có một sự chơi chữ, dựa trên hai hình thức của
động từ ’amān: "các
ngươi sẽ tin" (ta’amînû) và "các ngươi sẽ đứng vững" (tē’āmēnû).
Do sợ hãi trước sức mạnh của kẻ thù, nhà vua đã tìm kiếm sự an toàn của mình bằng
cách liên minh với đại đế As-sy-ri-a. Thay vào đó, vị tiên tri đã nói với nhà
vua rằng, hãy hoàn toàn tin tưởng vào đá tảng vững chắc và kiên cố đó là Thiên
Chúa của Is-ra-el. Bởi vì Thiên Chúa đáng tin cậy, rất hợp lý để đặt niềm tin
vào Ngài, vững tin vào Lời Ngài. Ngài cũng là một Thiên Chúa mà sau này
I-sa-i-a sẽ gọi hai lần trong một đoạn thơ, Thiên Chúa là Đấng Amen, “Thiên
Chúa Chân Thật” (x. Is.65,16), nền tảng vững bền nơi độ tin cậy của giao ước.
Người ta có thể nghĩ rằng, phiên bản bằng tiếng Hy-lạp của bộ Kinh Thánh, với
cách dịch của mình trong cụm từ “ở lại” với cụm từ “hiểu biết” đã đưa vào trong
bản văn một sự thay đổi được lượng giá một cách sâu sắc, mà trong cách dịch này
nó đã vượt qua quan điểm của Kinh Thánh về sự tín thác vào chính Thiên Chúa để
đưa đến một cách hiểu theo văn hóa Hy-lạp. Nhưng bản dịch này, tức bản dịch phản
ánh một cách chắc chắn cuộc đối thoại với nền văn hóa Hy-lạp cổ đại, không xa lạ
gì với tinh thần cơ bản của bản văn theo tiếng Híp-ry. Một nền tảng vững chắc
mà I-sa-i-a đã hứa với nhà vua quả thực đã được dựa trên một sự hiểu biết về hoạt
động của Thiên Chúa và sự hiệp thông mà Ngài đã ban cho sự sống con người cũng
như cho lịch sử của Dân Người. Vị Tiên tri đã thách thức nhà vua và chúng ta, để
hiểu biết về đường lối của Thiên Chúa, nhận ra sự trung tín của Thiên Chúa, kế
hoạch khôn ngoan chi phối các thời đại. Thánh Au-gus-ti-nô đã đưa đến một tổng hợp
của sự “hiểu biết” và việc “được đứng vững“,
và điều này được phát biểu trong tác phẩm Lời Tự Thú của ngài, khi ngài nói về chân
lý mà một người có thể tin tưởng vào đó để có thể hiểu: “Trong Ngài là sự vững
chắc và là sức mạnh của con (…). Chính Ngài là Chân lý“ [17]. Từ ngữ cảnh đó
chúng ta biết được rằng, Thánh Au-gus-ti-nô đã muốn chỉ ra cho thấy, Chân Lý
đáng tin cậy này của Thiên Chúa - như Kinh thánh đã làm rõ - là sự hiện diện đầy
tín trung của chính Ngài trong suốt chiều dài lịch sử, có khả năng gắn kết mọi
thời gian và các thời đại lại với nhau, qua đó, Ngài tập hợp mọi ngày đời của
con người trong sự phân rã của họ [18].
24.Được
đọc dưới ánh sáng này, bản văn của tiên tri dẫn đến một kết luận: chúng ta cần
kiến thức, chúng ta cần sự thật, bởi nếu không có những thứ này, chúng ta không
thể đứng vững, chúng ta không thể tiến về phía trước. Đức tin không có sự thật
thì không đem lại sự cứu rỗi, nó không cung cấp một nền tảng chắc chắn. Nó chỉ
còn lại như là một câu chuyện đẹp, bộc lộ sự mong ước sâu kín của chúng ta về hạnh
phúc, một điều gì đó có thể làm thỏa mãn chúng ta tới một mức độ mà chúng ta sẵn
sàng lừa dối cả bản thân mình. Hoặc là nó bị làm giảm thiểu vào một thứ tình cảm
đẹp đẽ nhưng kiêu căng, một thứ tình cảm đem lại sự an ủi và ấm áp, nhưng lại bị
nô lệ hóa cho sự hay thay đổi của tâm tính chúng ta cũng như tính khả biến của
thời gian, và không có khả năng để đưa ra cho cuộc sống không có điểm dừng này
một con đường cố định. Khi đức tin là như thế, thì vua A-chas đã có lý để không
đặt cuộc sống của ông cũng như cho sự vững chắc của triều đại ông trên một cảm
xúc. Nhưng qua mối liên kết nội tại của nó với sự thật, đức tin trở nên có năng
lực để mời chào một thứ ánh sáng mới, ánh sáng ấy vượt lên trên cả những tính
toán của nhà vua, vì nó nhìn xa hơn cũng như vì nó hiểu được hành động của
Thiên Chúa – Đấng hằng trung tín với các lời hứa và giao ước của Ngài.
25.Ngày
nay, hơn bao giờ hết chúng ta cần được nhắc nhớ về sự liên kết giữa đức tin và
sự thật, dựa vào kinh nghiệm về sự khủng hoảng sự thật trong thời đại của chúng
ta. Trong nền văn hóa đương đại, người ta thường có khuynh hướng để chỉ chấp nhận
sự thật như là sự thật của công nghệ: sự thật là cái mà người ta có thể xây dựng
và đo đạc chính con người với khoa học của họ, sự thật là cái làm cho cuộc sống
trở nên dễ dàng hơn, thoải mái hơn. Ngày nay điều này được xem như là một chân
lý duy nhất chắc chắn, một chân lý duy nhất có thể được chia sẻ, một chân lý
duy nhất có thể làm cơ sở cho các cuộc thảo luận hoặc cho những công việc
chung. Mặt khác, lại có những chân lý của cá nhân, mà chứa đựng trong đó điều
có thể trở thành xác thực đối với những cái mà mỗi người cảm thấy từ bên trong;
những cái đó chỉ có giá trị đối với cá nhân và không thể được giới thiệu cho
người khác với quyền hạn để phục vụ công ích. Chân lý vĩ đại, tức chân lý giải
thích toàn bộ cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đồng, được chiêm ngưỡng
với mối nghi kỵ. Người ta tự hỏi, phải chăng chẳng có chân lý gì hết, tức chân
lý mà toàn bộ các hệ thống độc tài của các thế kỷ trước đã tự cho mình có – một
chân lý phải chăng là một sự áp đặt hệ tư tưởng riêng của nó để đè bẹp lịch sử
cụ thể của mỗi cá nhân? Như vậy, rốt cuộc chỉ duy có chủ nghĩa tương đối là điều
còn lại, trong đó vấn nạn được đặt ra đối với chân lý phổ quát, tức một chân lý
nằm trong nền tảng cũng như trong vấn nạn về Thiên Chúa, không được quan tâm nữa.
Từ quan điểm này dẫn đến một lô-gich rằng, người ta muốn giải quyết mối liên kết
của tôn giáo với chân lý, bởi sự liên kết này đứng ngay trên gốc rễ của sự cuồng
tín, mà sự cuống tín này muốn trấn áp tất cả những ai không chia sẻ những niềm
tin cá nhân. Trong mối liện hệ này với một quá khứ lớn lao, chúng ta có thể nói
trong thế giới hiện tại của chúng ta. Vấn nạn về chân lý thực ra là một vấn nạn
của sự hồi tưởng, một sự tưởng nhớ thẳm sâu, bởi vì nó bị lôi cuốn bởi một cái
gì đó mà nó đã đi trước chúng ta, và bằng phương cách này nó có thể liên kết
chúng ta lại với nhau hầu có thể vượt qua những cái tôi nhỏ nhoi và hạn chế của
chúng ta. Nhưng trước hết, nó là một vấn nạn về nguồn cội, mà trong ánh sáng của
nó người ta có thể nhìn thấy đích điểm cũng như nhìn thấy ý nghĩa của con đường
chung.
Sự Hiểu biết, Chân lý và Tình yêu
26.Dựa
vào lập luận trên, đức tin Ky-tô giáo có thể đưa ra một sự hữu ích cho điều thiện
chung về con đường đúng đắn để hiểu biết chân lý không? Để trả lời cho câu hỏi
này, chúng ta cần suy tư về loại kiến thức liên quan đến đức tin. Ở đây một câu
nói của Thánh Phao-lô có thể giúp chúng ta hiểu: “Có tin thật trong lòng”
(Rm.10,10). Trong Kinh Thánh, tâm lòng là nòng cốt của con người, ở đó tất cả
các chiều kích khác nhau của con người giao hội lại với nhau: xác thể và tinh
thần, cái bên trong và sự mở ra với thế giới và với người khác, trí năng, ý chí
và xúc cảm. Nếu trái tim có thể giữ tất cả những chiều kích lại với nhau, thì bởi
vì nó là nơi chúng ta bắt đầu mở ra cho chân lý và tình yêu, nơi đó chúng ta để
chúng đụng chạm đến chúng ta và biến đổi chúng ta một cách sâu xa. Đức tin biến
đổi toàn bộ con người, đúng thế, tới một mức độ mà người đó trở nên mở ra cho
tình yêu. Thông qua sự hòa trộn này giữa đức tin và tình yêu, chúng ta đến để
nhìn ra loại kiến thức mà đức tin đưa đến, nhìn thấy sức mạnh thuyết phục của
nó và khả năng chiếu sáng của nó trên những bước chân của chúng ta. Đức tin biết
được bởi nó được gắn chặt với tình yêu, bởi tình yêu tự nó mang đến sự khai
sáng. Sự hiểu biết của đức tin được sinh ra khi chúng ta đón nhận tình yêu vô
biên của Thiên Chúa – mà tình yêu ấy lại biến đổi chúng ta từ bên trong và làm
cho chúng ta có thể nhìn thấy thực tại bằng đôi mắt mới.
27.Sự
giải thích về mối liên kết giữa đức tin và sự chắc chắn do triết gia Ludwig Wittgenstein nêu ra được nhiều
người biết tới. Đối với Wittgenstein,
đức tin có thể được so sánh tương tự với kinh nghiệm về sự đắm đuối của tình
yêu trong ý nghĩa của một cái gì đó chủ quan, không thể được đề xuất như là một
chân lý có giá trị đối với tất cả mọi người [19]. Qủa thực, hầu hết mọi người
ngày nay đều không coi tình yêu có một mối liên quan tới bất cứ cách nào đó của
chân lý. Tình yêu được coi như là một trải nghiệm được kết hợp với thế giới xúc
cảm chóng qua, không còn có chân lý ở đó nữa.
Nhưng đây có phải là một sự miêu tả đầy đủ về tình yêu không? Tình
yêu không thể bị giảm thiếu tới một loại tình cảm phù du, chóng phai nhạt. Thực
ra, nó gắn với lòng thương xót của chúng ta, nhưng là để mở nó ra cho người
mình yêu và do đó chiếu sáng con đường hầu giúp thoát ra khỏi sự tự cho mình là
trung tâm, và giúp hướng về người khác, để xây dựng một mối quan hệ lâu bền;
tình yêu nhằm hiệp nhất với người mình yêu. Ở đây chúng ta bắt đầu nhìn thấy
tình yêu đòi hỏi phải có sự thật như thế nào. Chỉ khi mức độ của tình yêu được
dựa trên sự thật thì nó mới có thể bền lâu và vượt lên trên thời gian, có thể
vượt qua những giây phút đang trôi qua và đủ chắc chắn để duy trì một cuộc hành
trình được sẻ chia. Nếu tình yêu không được gắn kết với sự thật, thì đương
nhiên sẽ bị lệ thuộc vào trong sự xúc cảm và không thể tồn tại trong sự thử
thách của thời gian. Một mặt, tình yêu đích thực hợp nhất lại với nhau tất cả
các thành tố của một con người, và trở nên một ánh sáng mới chỉ đường cho một
cuộc sống viên mãn và vĩ đại. Không có sự thật, tình yêu không thể tạo ra một mối
liên kết bền vững; nó không thể giải thoát chúng ta khỏi cái bản ngã bị cô lập
của mình, hay cứu thoát nó khỏi những khoảnh khắc phù du, mau qua, hầu có thể tạo
ra sự sống và sinh hoa trái.
Nếu tình yêu cần sự thật, thì sự thật cũng cần tình yêu. Tình yêu
và sự thật không thể tách rời nhau. Không có tình yêu, sự thật trở nên lạnh lẽo,
bâng quơ và làm ngột ngạt cuộc sống hằng ngày của con người. Sự thật mà chúng
ta kiếm tìm, sự thật đó đem lại ý nghĩa cho cuộc hành trình trong suốt cuộc đời
của chúng ta, khai sáng chúng ta bất cứ khi nào chúng ta được đụng chạm bởi
tình yêu. Người nào yêu sẽ nhận ra rằng tình yêu là một trải nghiệm của sự thật,
rằng nó mở mắt chúng ta để nhìn thấy thực tại trên con đường mới, trong sự kết
hiệp với người mình yêu. Theo nghĩa này, Thánh Grê-go-ri-ô Cả đã có thể viết rằng:
“amor ipse notitia est” - tình
yêu tự nó là một kiến thức có sự lô-gich của chính nó [20]. Đó là một cách thức
mang tính quan hệ để nhìn ngắm thế giới, đó là một nhận thức mà cả đôi bên cùng
chia sẻ, một cái nhìn từ quan điểm của người khác và một quan điểm chung của tất
cả mọi sự. Thánh William Saint-Thierry, thời Trung Cổ, đã tiếp bước truyền thống
này khi ngài bình luận về đoạn thơ trong sách Diễm Ca mà ở đó người yêu nói với
người mình yêu rằng: “Đôi mắt của em là đôi mắt bồ câu” (Dc.1,15) [21]. Đôi mắt
mà Thánh William nói, là lý trí và tình yêu được lấp đầy trong niềm tin, sau đó
trở nên một sự tiến triển trong sự trầm tư mặc tưởng về Thiên Chúa, khi sự hiểu
biết của chúng ta trở thành “một sự hiểu biết của tình yêu được khai sáng”
[22].
28.Sự
khám phá tình yêu này như là một nguồn hiểu biết, một phần nơi kinh nghiệm ban
sơ của mọi người nam và người nữ, tìm thấy được sự thể hiện có căn cứ đích xác
trong sự hiểu biết mang tính Thánh Kinh của đức tin. Trong việc nếm nghiệm tình
yêu mà nhờ đó Thiên Chúa đã chọn họ và làm cho họ trở nên một dân tộc, dân
Is-ra-el đã đến để hiểu ra sự thống nhất toàn diện của kế hoạch thánh thiêng. Đức
tin – sự hiểu biết, do được sinh ra từ tình yêu có tính giao ước của Thiên
Chúa, là tri thức thắp sáng con đường trong lịch sử. Điều đó cho thấy tại sao,
trong Kinh Thánh, sự thật và sự trung tín luôn đi cùng nhau: Thiên Chúa quả thực
là Đấng trung tín – Đấng giữ lời hứa và làm cho chúng trở nên có thể trong thời
gian, một sự hiểu biết sâu xa hơn về kế hoạch của Ngài. Qua kinh nghiệm của các
Tiên Tri, trong nỗi đau của sự lưu đày và trong hy vọng dứt khoát trở về thành
thánh, dân Is-ra-el đã đến để nhìn thấy rằng, “chân lý” thánh thiêng này đã mở
rộng vượt xa phạm vi bị bó hẹp nơi lịch sử của chính họ, để ôm toàn bộ lịch sử
của thế giới, với sự bắt đầu nơi công cuộc sáng tạo. Đức tin – đó là sự hiểu biết
mà nó chiếu tỏa ánh sáng không chỉ trên số phận của một dân tộc cụ thể, mà còn
trên toàn bộ lịch sử của thế giới đã được tạo dựng, từ khởi nguyên ban đầu cho
đến đích điểm tuyệt đối của nó.
Đức tin được ví như là sự Lắng nghe và Nhìn
ngắm
29.Đúng
vậy, bởi đức tin – tức sự hiểu biết được nối kết trong giao ước với một Thiên
Chúa trung tín – Đấng đi vào mối quan hệ yêu đương với con người và nói Lời của
Ngài cho con người, Kinh Thánh đã trình bày đức tin như là một sự nghe thấy; nó
được kết hợp với nghĩa của việc nghe thấy. Thánh Phao-lô thường sử dụng một
công thức mà công thức này đã trở nên kinh điển: fides ex auditu, “có đức tin là nhờ nghe rao giảng”
(Rm.10,17). Sự hiểu biết được nối liền với một lời luôn là sự hiểu biết cá
nhân; nó nhận ra giọng nói của người nói, mở ra cho người đó sự tự do và theo
người ấy trong sự vâng phục. Do vậy, Thánh Phao-lô đã có thể nói về “sự vâng phục
của đức tin” (x Rm. 1,5; 16,26) [23]. Ngoài ra, đức tin cũng còn là một sự hiểu
biết được gắn với dòng thời gian, bởi Lời cần có thời gian để được nói ra: Nó là một sự hiểu biết mà người ta có thể đạt
được sự hiểu biết ấy chỉ bằng một con đường duy nhất, tức là sự bước theo. Do
đó, kinh nghiệm của sự nghe thấy có thể giúp thể hiện rõ hơn sự gắn kết giữa hiểu
biết và tình yêu.
Sự hiểu biết của sự thật liên quan đến điều mà đôi khi sự lắng
nghe lại bị làm cản trở việc nhìn thấy, mà sự nhìn thấy lại là một nét riêng của
nền văn hóa Hy-lạp. Nếu ánh sáng cho phép sự suy tư toàn bộ điều mà nhân loại
luôn khao khát, thì nó cũng sẽ dường như chẳng để lại không gian nào cho sự tự
do, bởi nó đến từ trời cao và đi thẳng trực tiếp vào mắt, mà không đòi hỏi sự
phản ứng của đôi mắt. Ngoài ra, nó có vẻ như muốn mời gọi một sự định giá dựa
trên số liệu thống kê, bị chia tách từ thời gian cụ thể, mà trong đó con người
cảm nếm được niềm vui và sự đau khổ. Từ lập trường này, sự hiểu biết kiến thức
Kinh Thánh sẽ đối ngược với sự hiểu biết theo văn hóa Hy-lạp, tức điều đã nối kết
sự hiểu biết với sự nhìn ngắm bằng sự cố gắng để đạt được một sự hiểu biết toàn
diện về thực tại.
Tuy nhiên, sự phản đề được viện dẫn này không tương ứng với luận cứ
của Kinh Thánh. Cựu Ước kết hợp cả hai loại hiểu biết, bởi vì việc nghe thấy Lời
của Thiên Chúa đi cùng với sự khao khát muốn nhìn thấy dung nhan Ngài. Do vậy,
cơ sở được đặt ra cho một cuộc đối thoại với nền văn hóa Hy-lạp, đã là một cuộc
đối thoại nằm ngay trong trung tâm của Thánh Kinh. Việc nghe thấy nhấn mạnh đến
chiều kích cá nhân và vâng phục, và thực tế cho thấy rằng, chân lý được tiết lộ
trong thời gian. Việc nhìn thấy cung cấp một cái nhìn toàn diện trên cuộc hành
trình, và cho phép đặt vào trong kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa; không có sự
nhìn này, chúng ta sẽ bị để lại chỉ với những bộ phận rời rạc của một cái tổng
thể chưa được biết tới.
30.Sự
gắn kết giữa việc nhìn thấy và việc nghe thấy trong đức tin và sự hiểu biết là
bằng chứng rõ ràng nhất trong Tin Mừng của Thánh Gio-an. Đối với Tin Mừng Thứ
Tư, tin gồm cả nghe thấy và nhìn thấy. Sự nghe thấy của đức tin nổi lên như là
một dạng hiểu biết phù hợp với tình yêu: nó là một sự nghe thấy mang tính riêng
tư, mà qua đó người ta nhận ra tiếng của vị Mục Tử Nhân Lành (x. Ga.10,3-5); đó
là một sự lắng nghe trước lời mời gọi để trở thành môn đệ, như trường hợp của
các tông đồ đầu tiên: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giê-su” (Ga.1,37).
Nhưng đức tin cũng được gắn kết với sự nhìn thấy. Đôi khi việc nhìn thấy những dấu
lạ mà Chúa Giê-su đã làm dẫn đến đức tin, như trong trường hợp của những người
Do Thái, tức những người mà sau khi họ chứng kiến sự sống lại của La-za-rô, “chứng
kiến việc Chúa Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người” (Ga. 11,45). Đôi khi,
đức tin tự nó dẫn đến một sự nhìn thấy sâu xa hơn: “nếu chị tin, chị sẽ được thấy
vinh quang của Thiên Chúa” (Ga. 11,40). Cuối cùng, đức tin và sự nhìn thấy giao
hội với nhau: “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào
Đấng đã sai tôi; Và ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi” (Ga. 12,44-45). Sự
kết hợp giữa việc nghe thấy và nhìn thấy sẽ trở nên một dạng thức tuân theo
Chúa Ky-tô, và đức tin dường như là một quá trình nhìn ngắm, mà trong đó con mắt
của chúng ta dần dần làm quen với việc nhìn vào các vấn đề có chiều sâu. Vì thế,
buổi sáng Phục sinh được chuyển từ Thánh Gio-an – tức người đã đứng trong bóng
tối của buổi sáng sớm trước ngôi mồ trống, “đã thấy và đã tin” (Ga. 20,8) sang
cho Ma-ri-a Ma-đa-lê-la – tức người sau khi nhìn thấy Chúa Giê-su (x. Ga.20,14)
và muốn bám vào Ngài, được yêu cầu hãy nhìn ngắm Ngài khi Ngài lên cùng Chúa
Cha, và cuối cùng tới sự tuyên xưng một cách đầy đủ của chị trước các tông đồng: "Tôi
đã thấy Chúa"(Ga. 20,18).
Với cách nào mà một người có thể đạt được sự tổng hợp này giữa việc
nghe thấy và việc nhìn thấy? Nó trở nên có thể thông qua Con Người của chính
Chúa Ky-tô, Đấng có thể được nhìn thấy và nghe thấy. Ngài là Ngôi Lời đã hóa
thành nhục thể, vinh quang của Ngài chúng tôi đã nhìn thấy (x. Ga. 1,14). Ánh
sáng đức tin là ánh sáng của dung nhan mà trong đó chúng ta nhìn thấy Chúa Cha.
Trong Tin Mừng Thứ Tư, chân lý mà đức tin đạt được là sự biểu lộ Chúa Cha trong
Chúa Con, trong xác thịt của Ngài và trong các hoạt động trần thế của Ngài, một
chân lý mà nó có thể được định nghĩa như là “cuộc đời được đổ tràn ánh sáng” của
Chúa Giê-su [24]. Điều này có nghĩa rằng, đức tin và sự hiểu biết không hướng
cái nhìn của chúng ta đến một chân lý nội tại thuần túy bên trong. Chân lý mà đức
tin khai mở cho chúng ta là một chân lý được đặt trọng tâm vào một cuộc gặp gỡ
với Chúa Ky-tô, vào sự chiêm ngắm cuộc đời của Ngài và vào sự ý thức về sự hiện
diện của Ngài. Thánh Tô-ma A-qui-nô đã nói về Đức Tin của các Tông Đồ như sau: oculata fides – một đức
tin nhìn thấy! – trong sự hiện diện của thân thể Thiên Chúa Phục Sinh [25]. Bằng
con mắt của chính mình, các tông đồ đã nhìn thấy Chúa Giê-su Phục Sinh và các
ngài đã tin; nói một cách ngắn gọn, các ngài có thể nhìn vào các chiều sâu của
cái mà các ngài đang thấy và tuyên xưng niềm tin của mình vào Con Thiên Chúa, Đấng
ngồi bên hữu Chúa Cha.
31.Chỉ
bằng cách này, tức bằng việc mặc lấy xác phàm, thông qua sự chia sẻ nhân tính của
chúng ta, mà sự hiểu biết riêng của tình yêu mới có thể đạt tới được sự tròn đầy.
Bởi vì ánh sáng của tình yêu được sản sinh khi con tim của chúng ta được đụng
chạm, và khi chúng ta mở chính mình ra cho sự hiện diện bên trong của Đấng mình
yêu – tức Đấng làm cho chúng ta có thể nhận ra sự huyền nhiệm của Ngài. Vì thế,
chúng ta cần hiểu tại sao, cùng với việc nghe thấy và nhìn thấy, Thánh Gio-an
có thể nói về đức tin như là một sự đụng chạm, khi ngài nói trong lá Thư Thứ Nhất
của ngài rằng: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều
chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống“
(1Gn.1,1). Bằng việc mặc lấy xác thịt và đến ở giữa chúng ta, Chúa Giê-su đã chạm
vào chúng ta, và thông qua các bí tích thậm chí ngày hôm nay Ngài vẫn tiếp tục
chạm vào chúng ta; biến đổi lòng trí chúng ta, Ngài không ngừng làm cho chúng
ta có thể thừa nhận và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Trong đức tin, chúng
ta có thể chạm vào Ngài và nhận được sức mạnh từ ân sủng của Ngài. Thánh
Au-gus-ti-nô, khi nhận xét về trường hợp của người phụ nữ bị mắc bệnh xuất huyết
đã chạm vào Chúa Giê-su và được chữa khỏi (x. Lc.8,45-46), đã nói: “đụng chạm
vào với con tim, đó là đức tin” [26]. Đám đông áp sát vào Chúa Giê-su, nhưng họ
không chạm được tới Ngài bằng sự đụng chạm riêng tư của đức tin, điều nhận thức
về màu nhiệm của Ngài rằng, Ngài là Chúa Con – Đấng mặc khải Chúa Cha. Chỉ khi
nào chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su, thì khi đó chúng
ta mới có thể nhận được đôi mắt xứng hợp để nhìn thấy Ngài.
Đối thoại giữa Đức tin và Lý trí
32.Vì Đức
tin Ky-tô giáo tuyên xưng về một chân lý nơi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa
và mở con người ra cho sức mạnh của tình yêu ấy, nó đạt tới điều cốt lõi thực sự
từ kinh nghiệm của mỗi người, mà mỗi người thấy được ánh sáng nhờ tình yêu, được
kêu gọi để yêu và để ở lại trong ánh sáng. Khao khát chiếu sáng vào tất cả thực
tại với tình yêu của Thiên Chúa đã hiển nhiên được làm rõ ràng nơi con người
Chúa Giê-su, và tìm kiếm để yêu thương người khác bằng cùng một tình yêu ấy, những
người Ky-tô hữu đầu tiên đã tìm thấy trong thế giới Hy-lạp, với sự khao khát của
nó đối với chân lý, một đối tác lý tưởng trong đối thoại. Sự gặp nhau giữa lời
dậy của Phúc Âm với nền văn hóa triết học của thế giới cổ đại đã chứng tỏ một
bước quyết định trong việc loan báo Tin Mừng cho tất cả các dân tộc, và thúc đẩy
sự tương tác có lợi giữa đức tin và lý trí - điều đã diễn ra ở các thế kỷ sau
này và đến tận thời đại của chúng ta. Chân phúc Gio-an Phao-lô II, trong Thông
Điệp Đức tin và Lý trí (Fides et Ratio), đã chỉ ra cho thấy đức tin và lý trí củng
cố cho nhau như thế nào [27]. Một khi chúng ta khám phá ra ánh sáng đầy tràn của
tình yêu nơi Chúa Ky-tô, chúng ta sẽ nhận ra, có một tia sáng yếu ớt của thứ
ánh sáng ấy luôn luôn hiện diện trong toàn bộ tình yêu của chúng ta, và nhận ra đích đến cuối cùng của nó.
Thực tế cho thấy rằng, tình yêu của chúng ta tự mang đến cho mình một ánh sáng,
đồng thời giúp chúng ta nhận ra con đường của Tình Yêu, tức con đường dẫn chúng
ta đi vào trong sự viên mãn của sự hiến thân hoàn toàn mà Con Thiên Chúa đã thực
hiện vì chúng ta. Trong sự chuyển động vòng tròn này, ánh sáng của đức tin sẽ
chiếu rọi tất cả các mối quan hệ nhân loại của chúng ta, mà các mối quan hệ này
có thể được sống trong sự hiệp thông với tình yêu tinh tế của Chúa Ky-tô.
33.Trong
cuộc đời Thánh Au-gus-ti-nô chúng ta tìm thấy được một ví dụ quan trọng về quá
trình mà nhờ đó lý trí, với sự khao khát của nó về chân lý và sự rõ ràng, được
hòa nhập vào chân trời của đức tin, và như vậy có được sự hiểu biết mới. Thánh
Au-gus-ti-nô đã chấp nhận ánh sáng triết học của Hy-lạp, với sự nhấn mạnh về tầm
quan trọng của việc nhìn thấy. Sự chạm trán của ngài với thuyết tân Pla-ton đã
đưa ngài đến với thế giới quan của ánh sáng, mà ánh sáng ấy đi từ trên cao xuống
để chiếu sáng mọi thực tại, là một biểu tượng về Thiên Chúa. Vì thế Thánh
Au-gus-ti-nô đã đi đến việc nhận thức một cách rõ ràng về sự siêu việt của
Thiên Chúa, và đã khám phá ra rằng tất cả mọi thứ đều có một sự rõ ràng nhất định,
rằng chúng có thể phản ánh sự thánh thiện của Thiên Chúa. Sự nhận ra này đã giải
phóng Thánh nhân khỏi thuyết Thiện Ác của phái nhị nguyên, tức giáo thuyết đã
làm cho ngài nghĩ rằng, điều thiện và điều ác ở trong tình trạng xung khắc
không ngừng, lẫn lộn và đan quyện vào nhau. Sự nhận ra Thiên Chúa là ánh sáng
đã cung cấp cho Thánh Au-gus-ti-nô một hướng đi mới trong cuộc đời và làm cho
ngài có thể thừa nhận sự phạm tội của ngài để rồi trở về với sự thánh thiện.
Tất cả đều giống nhau, giây phút có tính quyết định trong chuyến
hành trình đức tin của Thánh Au-gus-ti-nô, như ngài nói cho chúng ta biết trong
tác phẩm Tự Thú, không phải là trong sự nhìn thấy của một Thiên Chúa ở trên và
bên kia thế giới này, nhưng là trong một kinh nghiệm nghe thấy. Trong vườn,
ngài nghe thấy một tiếng nói với ngài: “Hãy cầm lấy mà đọc”. Sau đó ngài đã cầm
lấy cuốn sách gồm các thư của Thánh Phao-lô và bắt đầu đọc chương thứ mười ba của
Thư gửi tín hữu Rô-ma [28]. Theo cách này, Thiên Chúa đầy nhân vị của Kinh Thánh là Đấng có khả năng để nói
chuyện với con người và có khả năng hạ mình xuống để sống với họ, cũng vậy, đã đồng
hành với nhân loại trên quãng đường trải dài trong suốt dòng lịch sử của họ, mà
trong đó ngài tự tỏ ra trong thời gian của sự lắng nghe và đáp trả.
Nhưng sự gặp gỡ này với Lời Thiên Chúa đã không làm cho Thánh
Au-gus-ti-nô khước từ ánh sáng cũng như sự nhìn ngắm. Ngài đã hợp nhất hai khía
cạnh của việc nghe thấy và nhìn thấy, không ngừng được hướng dẫn bởi sự biểu lộ
của tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su. Vì thế Thánh Au-gus-ti-nô đã phát triển
một thứ triết học ánh sáng có khả năng chứa đựng cả hai sự tương nhượng phù hợp
với Lời và sự tự do được bắt nguồn từ việc ngắm nhìn vào ánh sáng. Đúng ngay
lúc Lời kêu gọi một sự đáp trả tự do, thì ánh sáng tìm thấy một sự đáp trả bằng
hình ảnh phản ánh chính nó. Vì thế, Thánh Au-gus-ti-nô có thể kết hợp giữa việc
nghe thấy và nhìn thấy, và nói về “lời chiếu sáng bên trong” [29]. Ánh sáng trở
nên, có thể nói như vậy, ánh sáng của một lời, bởi vì nó là ánh sáng của một
dung nhan con người, một ánh sáng, thậm chí khi nó khai sáng chúng ta, gọi
chúng ta và tìm kiếm để được phản chiếu trên khuôn mặt của chúng ta và chiếu từ
bên trong chúng ta. Nhưng niềm khao khát của chúng ta về việc nhìn thấy một
cách toàn thể, và không chỉ đơn thuần nơi các phân mảng của lịch sử, vẫn còn và
sẽ được no thỏa vào thời điểm cuối cùng, khi mà như Thánh Au-gus-ti-nô nói,
chúng ta sẽ nhìn vấy và sẽ yêu [30]. Và không phải bởi vì Thánh Nhân sẽ có khả
năng để sở hữu toàn bộ ánh sáng, một thứ ánh sáng sẽ luôn bất tận, song vì Ngài
sẽ hoàn toàn và thậm chí đi vào trong ánh sáng.
34.Ánh
sáng của tình yêu phù hợp với đức tin có thể chiếu vào các câu hỏi của chính thời
đại chúng ta về chân lý. Chân lý ngày hôm nay thường được giảm thiểu vào tính
xác thực mang tính chủ quan của cá nhân, có giá trị chỉ với cuộc sống của cá nhân.
Một chân lý chung đe dọa chúng ta, bởi vì chúng ta nhận diện chúng bằng các nhu
cầu không khoan nhượng của các hệ thống chủ nghĩa chuyên chế. Nhưng nếu chân lý
là một chân lý của tình yêu, nếu nó là một chân lý được khai mở trong sự gặp gỡ
đích thân với một Đấng Khác và với người khác, thì nó có thể được giải phóng khỏi
các hàng rào của chính nó trong các cá nhân và trở nên một phần của điều thiện
chung. Bởi vì nó bắt nguồn từ tình yêu, có thể thâm nhập vào con tim, vào cõi
lòng riêng của mỗi người nam và người nữ. Nên rõ ràng là, đức tin không phải là
không có sự khoan nhượng, nhưng lớn lên trong sự đồng tồn tại và tôn trọng lẫn
nhau. Người tin không thể tự phụ; trái lại chân lý dẫn đến sự khiêm nhượng, bởi
vì người tin biết điều đó hơn là chính bản thân chúng ta sở hữu chân lý, nó là
chân lý ôm ấp và sở hữu chúng ta. Không những không làm cho chúng ta trở nên cứng
nhắc, sự đảm bảo của đức tin tạo ra cho chúng ta một chuyến hành trình; nó có
thể làm chứng và đối thoại với tất cả.
Và ánh sáng của đức tin, được nối liền với chân lý của tình yêu,
cũng không bắt nguồn ở ngoài thế giới vật chất, bởi vì tình yêu luôn tồn tại
trong thân thể và tinh thần. Ánh sáng của đức tin là hiện thân của một ánh sáng
mà nó tỏa ra từ cuộc đời chiếu sáng của Chúa Giê-su. Nó cũng chiếu sáng thế giới
vật chất và xây dựng trật tự của chính nó, và nhận ra rằng, ngay trong chính
nó, một con đường của sự hòa điệu và của sự hiểu biết toàn diện sẽ mở ra. Vì thế
cái nhìn của khoa học được lợi từ đức tin: điều này mời gọi các nhà khoa học
hãy mở chính mình ra đối với thực tại trong tất cả sự phong phú vô tận của nó.
Đức tin khêu gợi lên một sự nhận thức có phê phán, bằng cách làm cho sự nghiên cứu tránh
khỏi sự tự thoả mãn với những cách thức của chính nó và giúp nó nhận ra rằng, bản
chất của vấn đề này luôn luôn được vượt qua. Bằng cách kích thích sự tự đặt ra
những vấn nạn trước mầu nhiệm sâu xa của sự sáng tạo, đức tin mở rộng chân trời
của lý trí và chiếu tỏa ánh sáng tốt hơn nữa trên thế giới – tức một thế giới mà sự nghiên cứu khoa học dễ tiếp cận.
Đức tin và sự Tìm kiếm Thiên Chúa
35.Ánh
sáng của đức tin vào Chúa Giê-su cũng thắp sáng con đường của tất cả những ai
tìm kiếm Thiên Chúa, và tạo ra một sự đóng góp riêng biệt của Ky-tô giáo trong
việc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác. Bức thư gửi tín hữu Do
Thái nói về nhân chứng của những người mà trước khi có giao ước với Ab-ra-ham,
họ đã tìm kiếm Thiên Chúa trong đức tin. Về phần E-noch, “trước khi được đem
đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt.11,5), có cái gì đó không thể loại trừ
đức tin, bởi vì “ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin
Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt.11,6). Chúng ta
có thể nhìn thấy điều này rằng, con đường của những con người có tín ngưỡng tiến
triển trên sự thừa nhận một Thiên Chúa, Đấng quan tâm đến con người, và để nhìn
thấy được Ngài thì đó là điều không thể. Thiên Chúa có thể trao phần thưởng nào
khác hơn cho những ai tìm kiếm Ngài nếu đó không phải là sự tự để cho chính bản
thân của Ngài được tìm thấy? Thậm chí trước đó, chúng ta gặp thấy A-bel, đức
tin của ông được ca ngợi, và lễ phẩm của ông dâng, tức lễ phẩm được lấy từ các con
đầu trong đàn súc vật của ông (x. Dt. 11,4), vì thế đã làm hài lòng Thiên Chúa.
Người có niềm tin cố gắng tìm kiếm các dấu chỉ của Thiên Chúa trong các kinh
nghiệm hằng ngày của cuộc sống, trong chu kỳ của các mùa, trong sự sinh hoa kết
trái của trái đất và trong sự vần vũ của vũ trụ. Thiên Chúa là ánh sáng và những
ai chân thành tìm kiếm Ngài thì sẽ tìm thấy được Ngài.
Hình ảnh về sự tìm kiếm này cũng có thể được nhìn thấy nơi những đạo
sĩ được ngôi sao dẫn đường để đi đến Bê-lem (x. Mt. 2,1-12). Đối với họ, ánh
sáng của Thiên Chúa xuất hiện khi họ thực hiện một cuộc hành trình, một vì sao
dẫn dắt họ trên con đường khám phá. Có thể nói được rằng, ngôi sao chính là sự
kiên nhẫn của Thiên Chúa trước con mắt chúng ta, mà đôi mắt ấy của chúng ta cần
phải tự thích ứng với ánh hào quang của Thiên Chúa. Người có niềm tin tôn giáo
là người đang đi trên cuộc hành trình; người ấy phải sẵn sàng để mình được hướng
dẫn, để rồi đi ra khỏi chính mình và sau đó được nhìn ngắm Thiên Chúa, Đấng
luôn luôn gây bất ngờ. Sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con mắt chúng ta chỉ
cho chúng ta thấy rằng, khi chúng ta đến gần Thiên Chúa, ánh sáng của con người
không bị hòa tan trong sự mênh mông của ánh sáng Ngài, như một vì sao bị nhấn
chìm bởi rạng đông, nhưng càng được chiếu tỏa rạng rỡ hơn, càng đến gần được với
ngọn lửa uyên nguyên hơn, giống như một chiếc gương phản chiếu ánh hào quang vậy.
Đức Tin của người Ky-tô hữu vào Chúa Giê-su, Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới,
tuyên xưng rằng ánh sáng của Thiên Chúa được tập trung nơi Ngài, trong “cuộc đời
tỏa sáng” của Ngài đã biểu lộ ra căn nguyên và tận cùng của lịch sử [31]. Không
có kinh nghiệm nào của con người, không có con đường nào của con người tới
Thiên Chúa, tức con đường bắt đầu từ ánh sáng này, có thể chiếu sáng và làm
thay đổi. Người Ky-tô hữu càng đắm mình vào vòng tròn ánh sáng của Chúa Ky-tô,
thì họ càng có thể trở nên hiểu biết và đi theo con đường của mọi người nam và
người nữ tiến về Thiên Chúa hơn.
Bởi vì đức tin là một con đường, nên nó vẫn ảnh hưởng trên cuộc sống
của những người nam và người ngữ, tức những người dầu không phải là những người
có đức tin nhưng họ khao khát tin và tiếp tục tìm kiếm. Tới chừng mực mà họ
chân thành mở mình ra cho tình yêu và bắt đầu lên đường với bất kỳ thứ ánh sáng
nào mà họ có thể tìm thấy, thậm chí là không biết nó, họ đã đi trên con đường dẫn đến đức tin. Họ cố gắng
hành động như là Thiên Chúa đang tồn tại, bởi vì họ thỉnh thoảng nhận ra tầm
quan trọng của Ngài như thế nào như đối với sự tìm ra một chiếc la bàn chắc chắn
cho cuộc đời của nhân loại nói chung, hoặc bởi vì họ trải qua một sự khao khát
ánh sáng ở giữa bóng tối, nhưng cũng vì trong sự nhận ra sự lớn lao và đẹp đẽ của
sự sống mà họ trực cảm được rằng, sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả
được tốt đẹp hơn. Thánh I-rê-nê thành Ly-on nói về Ab-ra-ham rằng, trước khi
nghe thấy tiếng Thiên Chúa, ông đã sẵn sàng tìm kiếm Ngài: “với sự nồng cháy của
con tim” và tìm kiếm “trong khi ông tự đặt ra câu hỏi, Thiên Chúa ở đâu, đã đi
lang thang trên toàn thế giới” cho tới khi “lòng thương xót của Thiên Chúa có với
ông, ông đã tìm kiếm một mình Ngài trong thinh lặng [32]. Bất cứ ai lên đường để
làm điều thiện cho người khác tức là đã sẵn sàng để tiến gần tới Thiên Chúa, đã
chấp nhận sự giúp đỡ của Ngài, bởi điều này thuộc về sự năng động của ánh sáng
Thiên Chúa, để chiếu sáng con mắt chúng ta, khi chúng ta tiến bước đến sự tròn
đầy và viên mãn của tình yêu.
Đức tin và Thần học
36.Bởi
đức tin là ánh sáng, nó thu hút chúng ta vào chính nó, mời gọi chúng ta càng
ngày càng khám phá đầy đủ hơn nữa về chân trời mà nó chiếu rọi, để chúng ta hiểu
biết nhiều hơn nữa về Đấng mà chúng ta yêu mến. Thần học Ky-tô giáo được bắt
nguồn từ mong muốn này. Rõ ràng rằng, thần học không thể không có đức tin; nó
là một phần trong chính tiến trình của đức tin, tìm kiếm một sự hiểu biết sâu
xa hơn về sự tự mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa nơi Chúa Ky-tô. Tính hợp lý
trước tiên chứa đựng trong điều rằng, Thần học không đơn giản chỉ là một nỗ lực
của lý trí con người để phân tích và để hiểu như được nhìn thấy trong các khoa
học thực nghiệm. Không thể giảm
thiểu Thiên Chúa vào trong một đối tượng, một vật thể. Ngài là chủ thể, Đấng
đang hành động, Đấng tự hữu để được nhận biết, Đấng tự mạc khải chính mình trong mối tương quan ngôi vị với ngôi
vị. Đức tin chân chính định hướng lý trí hầu mở nó ra cho ánh sáng, một ánh
sáng đến từ Thiên Chúa, để lý trí được dẫn dắt bởi tình yêu chân lý, có thể đạt
được một sự hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa. Các vị Tiến Sỹ và các thần học gia
thời trung cổ rất có lý khi cho rằng thần học, như là một khoa học về đức tin,
là một sự tham dự vào sự hiểu biết của chính Thiên Chúa về chính Ngài. Nó không
chỉ là sự thuyết minh về Thiên Chúa, nhưng trước tiên và trước hết là sự chấp
nhận và mưu tìm một sự hiểu biết sâu xa hơn về Lời mà Thiên Chúa nói với chúng
ta, Lời mà Thiên Chúa nói về chính Ngài, bởi trong Ngài là một cuộc đối thoại
vĩnh cửu về sự hiệp thông, và Ngài cho phép chúng ta đi vào cuộc đối thoại này
[33]. Vì thế, thần học đòi hỏi phải có sự khiêm hạ để được “gây xúc động” bởi
chính Thiên Chúa, và thừa nhận sự hạn chế của chính nó trước màu nhiệm, trong
khi cố gắng tìm hiểu, với những quy tắc phù hợp với lý trí, với sự phong phú vô
tận của màu nhiệm này.
Thần học cũng chia sẻ trong dạng thức đức tin của
Ky-tô giáo; ánh sáng của nó là ánh sáng của chủ thể tin, đó là Giáo Hội. Một mặt,
điều này hàm ý rằng, thần học phải đứng trong sự phục vụ đức tin của người
Ky-tô hữu, khiêm tốn hiến thân cho sự bảo tồn và đào sâu đức tin của tất cả mà
tiên vàn là của những con người hèn kém nhất. Mặt khác, bởi vì đời sống của nó
được dung nạp từ đức tin, nên thần học không thể coi Quyền giáo huấn của Đức
giáo hoàng và các giám mục trong sự hiệp thông với ngài như là một thứ gì đó
ngoại lai, một giới hạn đối với sự tự do của nó, nhưng là một cái gì đó thuộc về
các chiều kích nội tại cấu thành nên nó, vì Quyền huấn dậy đảm bảo sự tiếp xúc
của chúng ta với nguồn cội căn nguyên và vì thế cung cấp sự chắc chắn để đạt đến
Lời của Chúa Ky-tô trong tất cả sự toàn vẹn
của nó.
CHƯƠNG III
TÔI
TRUYỀN LẠI CHO ANH EM
ĐIỀU
MÀ CHÍNH TÔI ĐÃ LÃNH NHẬN
(x. 1 Cr 15:3)
Giáo Hội, Người Mẹ Đức tin của Chúng ta
37.Những
ai mở lòng mình ra cho tình yêu của Thiên Chúa, nghe thấy tiếng Ngài và
nhận được ánh sáng của Ngài, thì không thể giữ quà tặng này cho riêng mình. Bởi
vì đức tin là nghe thấy và nhìn thấy, nên nó cũng được truyền đi như lời và ánh
sáng. Khi viết cho tín hữu ở Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô đã sử dụng chính hai hình
ảnh này. Một mặt ngài nói: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép : Tôi đã
tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.” (2. Cr.
4,13). Lời, một khi được chấp nhận, trở nên một sự đáp trả, một sự tuyên xưng đức
tin, loan truyền cho người khác và mời gọi họ tin. Thánh Phao-lô cũng sử dụng
hình ảnh của ánh sáng: Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu
vinh quang của Thiên Chúa như một bức gương ; như vậy, chúng ta được biến đổi
nên giống cũng một hình ảnh đó” (2 Cr. 3,18). Nó là một loại ánh sáng được phản
chiếu từ mặt một người sang mặt người khác, thậm chí như Mô-sê – mà chính ông
đã mang sự phản ánh vinh quang của Thiên Chúa sau khi đàm đạo với Thiên Chúa: “Thiên Chúa….làm cho ánh sáng chiếu soi lòng
trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng
ngời trên gương mặt Chúa Ki-tô” (2 Cr. 4,6). Ánh sáng của Chúa Ky-tô chiếu tỏa,
như trong một chiếc gương, lên trên khuôn mặt của những người Ky-tô hữu; khi nó
tỏa ra, nó đến trên chúng ta, ngõ hầu chúng ta cũng có thể chia sẻ trong cái
nhìn ấy và phản chiếu ánh sáng đó cho người khác, trong cùng một cách thức mà
trong phụng vụ Lễ Phục Sinh, ánh sáng của nến Phục Sinh thắp sáng vô số các ngọn
nến khác. Đức tin được truyền qua, chúng ta có thể nói thế, bằng sự tiếp xúc, từ
người này sang người khác, ví như một ngọn nến được thắp sáng từ ngọn nến khác.
Những người Ky-tô hữu, trong sự nghèo khó của mình, gieo trồng một hạt giống, từ
hạt giống ấy nó trở nên một cây lớn, có khả năng lấp đầy thế giới bằng hoa trái
của nó.
38.Sự
loan truyền đức tin này không chỉ mang ánh sáng đến cho những người nam và người
nữ ở mọi nơi, mọi thời; mà nó còn đi qua dòng thời gian, truyền qua từ đời nọ tới
đời kia. Bởi đức tin được bắt nguồn từ một sự gặp gỡ diễn ra trong lịch sử và
thắp sáng cuộc hành trình của chúng ta trong suốt dòng thời gian, nó phải được
chuyển qua cho mọi thời đại. Nó xuyên qua một chuỗi liên tục các chứng nhân mà
chúng ta đến để nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Giê-su. Nhưng làm sao điều này lại
có thể? Làm sao chúng ta có thể chắc chắn, sau tất cả những thế kỷ này, rằng
chúng ta đã gặp được “ Chúa Giê-su đích thực”? Nếu chúng ta chỉ là những cá
nhân đơn lẻ tách biệt nhau, nếu điểm xuất phát của chúng ta đơn giản chỉ là bản
ngã cá nhân của riêng chúng ta đi tìm trong chính nó cơ sở của sự hiểu biết tuyệt
đối chắc chắn, thì một sự chắc chắn của loại này sẽ là không thể. Tôi không thể
thẩm tra cho chính tôi những thứ đã xảy ra cách đây quá lâu, từ xa xưa. Nhưng
điều này không phải là cách thế duy nhất mà chúng ta có được sự hiểu biết. Con người luôn sống trong mối tương
quan. Chúng ta đến từ người khác, chúng ta thuộc về người khác, và cuộc đời của
chúng ta được mở rộng nhờ sự gặp gỡ của chúng ta với người khác. Thậm chí sự hiểu
biết của chính chúng ta cũng như sự tự nhận thức của chúng ta luôn có tính
tương quan; chúng được nối kết với người khác, tức những người đã đi trước
chúng ta: ở vị trí đầu tiên, cha mẹ của chúng ta – tức người đã trao cho chúng
ta sự sống và tên của chúng ta. Ngôn ngữ tự nó, tức lời mà nhờ nó chúng ta làm
nên ý nghĩa của cuộc đời chúng ta và thế giới chung quanh chúng ta, đến với
chúng ta từ người khác, được bảo tồn trong trí nhớ sống động của người khác. Sự
tự biết chỉ có thể khi chúng ta chia sẻ trong cùng một ký ức lớn lao hơn. Điều
giống nhau duy trì tính xác thực cho niềm tin, mang lại sự hiểu biết của con
người đến sự tròn đầy của nó. Quá khứ của
đức tin, tức các hành động yêu thương của Chúa Giê-su đã mang lại sự sống mới
cho thế giới, đến với chúng ta nhờ ký ức của người khác – tức các chứng nhân –
và được tiếp diễn trong một chủ thể chuyển tải nó đó là Giáo Hội. Giáo Hội là một
Người Mẹ dậy chúng ta nói ngôn ngữ của đức tin. Thánh Gio-an thể hiện điều này
trong Tin Mừng của ngài bằng cách kết hợp gần nhau giữa đức tin và ký ức
và kết hợp cả hai với sự làm việc của Chúa Thánh Thần – Đấng, như Chúa Giê-su
đã nói, “sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em” (Ga.
14,26). Tình yêu là Chúa Thánh Thần và ở trong Giáo Hội. Tình yêu ấy hợp nhất mọi
thời đại và làm cho chúng ta trở thành những người sống cùng thời với Chúa Giê-su, do vậy hướng dẫn
chúng ta trong suốt cuộc hành trình đức tin.
39.
Chúng ta không thể tin một mình. Đức tin không đơn giản là một quyết định cá
nhân xảy ra trong lòng của người tin, cũng không phải là một mối quan hệ cá
nhân giữa cái “Tôi” của người tin và giữa tiếng “Ngài“ thần linh, giữa một chủ
thể vô danh và Thiên Chúa. Bởi ngay tại bản chất của nó, đức tin mở ra cho chúng
ta cái “Chúng tôi” của Giáo Hội; nó luôn luôn diễn ra bên trong sự hiệp thông của
Giáo Hội. Chúng ta được nhắc nhở điều này bằng mẫu Kinh tin kính hỏi đáp được sử
dụng trong phụng vụ của Bí Tích Thánh Tẩy. Niềm tin của chúng ta được thể hiện
trong sự đáp trả lại một lời mời gọi, mà lời đáp ấy phải được nghe thấy và
không phải của riêng tôi; nó tồn tại như là một phần của một cuộc đối thoại và
không thể chỉ là một sự tuyên xưng bắt nguồn từ một cá nhân. Chúng ta có thể
đáp lại một mình – “tôi tin” – bởi chúng
ta là một phần của một sự hiệp thông lớn hơn,
bởi chúng ta cũng nói “chúng tôi tin”. Tính chất rộng mở này đối với cái
được gọi là “Chúng tôi” của Giáo Hội, phản ánh tính chất rộng mở nơi tình yêu của
chính Thiên Chúa, mà tình yêu ấy không chỉ là một mối quan hệ giữa Thiên Chúa
Cha và Thiên Chúa Con, giữa một cái gọi là “Tôi” và một cái gọi là “Ngài”,
nhưng còn là, trong Thần Khí, một cái gọi là “Chúng tôi”, một sự thông hiệp của
những con người. Ở đây chúng ta nhận ra tại sao những người tin thì không bao
giờ đơn độc, và tại sao đức tin có khuynh hướng truyền tỏa ra, bởi vì nó mời gọi
người khác chia sẻ trong niềm vui của nó. Những ai đón nhận đức tin thì khám phá ra rằng,
các chân trời của họ mở rộng ra các mối quan hệ mới và làm cho cuộc sống trở nên
phong phú hơn. Tertullian đã diễn tả rất tốt điều này khi ông mô tả những người
dự tòng, tức những người mà „sau khi chịu phép rửa được tái sinh”, được đón vào
ngôi nhà của người mẹ của họ, và là thành viên của một gia đình mới, cùng cầu
nguyện bằng Kinh Lạy Cha với
nhau và với các người anh chị em của mình [34].
Bí tích và sự Loan truyền Đức tin
40. Giáo Hội, cũng
như mọi gia đình, truyền cho con cái của mình toàn bộ kho tàng ký ức của mình.
Nhưng làm thế nào để việc truyền giao này diễn ra trong một cách thức mà nó không làm mất đi bất cứ một cái gì, không những thế, còn
làm cho mọi thứ trong kho tàng đức tin có được sự hiểu biết sâu xa hơn? Đó là
thông qua Truyền Thống được bảo toàn trong Giáo Hội với sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần mà chúng ta có được một sự tiếp xúc sống động với sự tưởng nhớ mang
tính nền tảng. Điều đã được truyền lại bởi các Tông Đồ - như Công Đồng
Va-ti-ca-nô II tuyên bố - “bao gồm tất cả mọi thứ nhằm phục vụ Dân Chúa,
làm cho họ sống đời sống trong sự thánh
thiện và gia tăng niềm tin của họ. Theo cách này, Giáo Hội, trong giáo huấn, đời
sống và sự thờ phượng của mình, bảo tồn và truyền lại cho mọi thế hệ tất cả những
gì là chính mình , tất cả những
gì mà Giáo Hội tin”. [35]
Đức tin, quả thực cần một không gian mà trong đó nó có thể được làm chứng
và truyền đạt, một phương tiện, một cách thức phù hợp và tương xứng với điều được
thông truyền. Để thông truyền nội dung giáo lý thuần túy, thì một ý kiến có thể
là đủ, hoặc cũng có thể là một cuốn sách, hoặc nhắc lại một sứ điệp đã được nói
ra. Nhưng điều được thông truyền trong Giáo Hội, điều được truyền lại trong
Truyền Thống sống động của Giáo Hội lại là ánh sáng mới bắt nguồn từ một cuộc gặp
gỡ với Thiên Chúa đích thực, một ánh sáng đụng chạm đến sự sâu thẳm trong sự hiện
hữu của chúng ta và chiếm đoạt lòng trí và tình cảm của chúng ta, mở chúng ta
ra để đi đến với các mối quan hệ được sống trong sự hiệp thông. Có một phương
tiện đặc biệt để truyền giao sự đầy đủ này, một phương tiện có khả năng tham
gia vào toàn bộ con người, thân xác và tinh thần, đời sống nội tâm và các mối
tương quan với người khác. Đó là các bí tích, được cử hành trong phụng vụ của
Giáo Hội. Các bí tích thông truyền một ký ức cụ thể, được nối liền với thời gian và
không gian của cuộc đời chúng ta, được nối kết với tất cả các giác quan của
chúng ta, mà với chúng toàn bộ con người chúng ta được tham gia vào như một chi
thể của một chủ thể sống động và là một bộ phận của một mạng lưới các mối tương
quan huynh đệ. Trong khi các bí tích quả thực là các bí tích của đức tin, thì
cũng có thể nói rằng, đức tin tự nó đã sở hữu một cấu trúc mang tính bí tích. Sự
làm tỉnh thức của đức tin được nối kết với sự bắt đầu của một ý nghĩa mang tính
bí tích mới trong đời sống của chúng ta với tư cách là con người và là người
Ky-tô hữu, trong đó những thực tại vật chất và hữu hình có thể được nhìn thấy
và vượt qua chính bản thân chúng để đi tới mầu nhiệm của Đấng Vĩnh Cửu.
41. Sự
thông truyền đức tin diễn ra đầu tiên và trước hết qua bí tích rửa tội. Một số
người có thể nghĩ rằng, bí tích rửa tội chỉ là một cách thức biểu tượng hóa sự
tuyên xưng đức tin, một công cụ có tính sư phạm đối với những ai đòi hỏi một
hình ảnh và dấu chỉ, trong khi tự bản thân nó rốt cục không cần thiết. Một lời
nhận xét của Thánh Phao-lô về bí tích rửa tội đã nhắc cho chúng ta hiểu về điều
này rằng, không phải như thế. Thánh Phao-lô đã tuyên bố: “Vì được dìm vào trong
cái chết của Chúa Ky-tô, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế,
cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa
Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm.6,4). Trong bí tích rửa
tội chúng ta trở nên một tạo vật mới và tái sinh làm con cái của Thiên Chúa. Thánh Tông Đồ tiếp tục nói rằng, người
Ky-tô hữu được giao cho “một Giáo lý chính quy“ (týpos didachés), mà bây
giờ họ hết lòng vâng theo (x. Rm.6,17).Trong bí tích rửa tội, chúng ta
nhận được cả hai lời dậy để được tuyên xưng, và một cách đặc biệt của cuộc sống
– tức một cuộc sống đòi hỏi sự tham dự toàn bộ con người và đặt chúng ta trên
con đường tiến tới sự thiện hảo. Những ai được chịu bí tích rửa tội có nghĩa là
được đặt vào trong một thực thể mới, được trao phó cho một môi trường mới, một
con đường mới và được chia sẻ các hoạt động trong Giáo Hội. Sau đó, bí tích rửa
tội làm chúng ta có thể thấy được rằng, đức tin không phải là sự đạt được của
những cá nhân riêng lẻ; nó không phải là một hành động mà một ai đó có thể thực
hiện một mình, nhưng đúng hơn là một thứ gì đó phải được nhận lấy bằng cách đi
vào sự hiệp thông của Giáo Hội, tức sự hiệp thông truyền giao ân sủng của Thiên
Chúa. Không ai tự rửa tội cho mình, bởi vì chẳng có ai tự mình đi vào thế giới
này. Bí tích rửa tội là cái gì đó mà chúng ta nhận lãnh.
42. Nhưng
yếu tố nào của bí tích rửa tội dẫn chúng ta đi vào “một Giáo lý chính quy” mới
này? Thứ nhất, danh của Thiên Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần – được cầu khẩn trên người
dự tòng. Do vậy, từ sự bắt đầu, một tổ hợp của chuyến hành trình đức tin đã được
cung cấp. Thiên Chúa, Đấng đã gọi Ab-ra-ham; Thiên Chúa, Đấng tiết lộ tên của
Ngài cho Mô-sê; Thiên Chúa, Đấng đã thể hiện trong việc tặng ban cho chúng ta
Người Con của Ngài, đã mặc khải trọn vẹn màu nhiệm Danh của Ngài, bây giờ ban
cho người chịu phép rửa một căn tính mới của việc làm con. Điều này được thấy một cách rõ ràng trong
hành động của chính bí tích rửa tội: nhấn chìm trong nước. Nước ngay lập tức là
một biểu tượng của sự chết, mời gọi chúng ta vượt qua sự tự chuyển hoán tới một
căn tính mới và lớn lao hơn, và một biểu tượng sủa sự sống, của dạ mẹ mà ở đó
chúng ta được tái sinh nhờ đi theo Chúa Ky-tô trong đời sống mới của Ngài. Bằng
cách này, sự nhấn chìm trong nước, bí tích rửa tội nói với chúng ta về một cấu
trúc có tính tân hiện sinh của đức tin. Công trình của Chúa Ky-tô thẩm thấu
xuyên qua chiều sâu nơi sự hiện hữu của chúng ta và biến đổi tận căn chúng ta,
làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa cũng như được chia sẻ thần tính của Ngài. Do vậy, nó làm thay đổi
tất cả các mối tương quan của chúng ta, vị trí của chúng ta trong thế giới này
và trong vũ trụ, và mở chúng ta ra
để đi tới một cuộc sống hiệp thông của chính Thiên Chúa. Sự thay đổi này, một sự
thay đổi xảy ra trong bí tích rửa tội, giúp chúng ta hiểu rõ giá trị về tầm
quan trọng riêng của giai đoạn dự tòng
– nhờ đó làm tăng thêm con số các Ky-tô hữu trưởng thành, thậm chí ngay trong cội
nguồi xã hội của các Ky-tô hữu sơ khai, giờ đây tiếp cận gần hơn với Bí Tích Rửa
Tội – cho việc tân Tin Mừng hóa. Nó là con đường chuẩn bị cho bí tích rửa tội,
cho sự biến đổi toàn bộ đời sống của chúng ta trong Chúa Ky-tô.
Để hiểu đúng giá trị của sự liên kết này giữa bí tích rửa tội và đức
tin, chúng ta cần nhớ lại đoạn văn của Tiên Tri I-sa-i-a, được liên hệ tới Bí
Tích Rửa Tội trong nền văn chương Ky-tô Giáo sơ khai: “có đồn trên núi đá làm
nơi trú ẩn ... nước uống chẳng lo thiếu bao giờ.” Người nhận bí tích rửa tội,
đã được cứu khỏi nước của sự chết, bây giờ được đặt ở “nơi trú ẩn bằng đá”, bởi
vì họ đã tìm thấy một nền tảng vững chắc và đáng tin cậy. Nước của sự chết như
vậy đã được biến đổi thành nước của sự sống. Bản văn Hy-lạp, khi nói về nước, tức
nước mà “chẳng thiếu bao giờ”, đã sử dụng từ pistós, "tín
trung". Nước của bí tích rửa
tội quả thực là tín trung và đáng tin cậy bởi vì nước ấy chảy bằng sức mạnh nơi
tình yêu của Chúa Ky-tô, nguồn mạch của sự đảm bảo của chúng ta trong cuộc hành
trình của đời sống.
43.Cấu
trúc của phép rửa, mà hình thức của nó như là một sự tái sinh và ở đó chúng ta
nhận được một danh xưng và một cuộc đời mới, giúp chúng ta hiểu đúng hơn ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc rửa tội cho các em nhỏ. Các em không có khả năng đón
nhận đức tin bằng một hành động tự do, cũng không có khả năng tự mình tuyên
xưng đức tin ấy; vì thế đức tin của các em được tuyên xưng bởi bố mẹ của các em
và bởi những người đỡ đầu của các em. Bởi đức tin là một thực tại được sống
trong cộng đoàn Giáo Hội, một phần của một cái chung “Chúng ta”, nên các em có
thể được hỗ trợ, được giúp đỡ bởi những người khác, cha mẹ và người đỡ đầu của
các em, và được đón nhận vào trong đức tin chung
của họ, đó là đức tin của Hội Thánh; điều này được biểu trưng hóa bởi ngọn
nến sáng mà cha mẹ của đứa trẻ thắp sáng từ ngọn nến Phục Sinh. Vì thế, cấu
trúc của bí tích rửa tội thể hiện sự quan trọng thiết yếu của sự phối hợp giữa
Hội Thánh và gia đình trong sự thông truyền đức tin. Cha mẹ được kêu gọi, như
Thánh Au-gus-ti-nô đã từng nói, không chỉ mang các em đến với thế giới, nhưng
còn mang chúng đến với Chúa, ngõ hầu thông qua bí tích rửa tội, các em có thể
được tái sinh làm con cái của Thiên Chúa và lãnh nhận ân ban đức tin [38]. Vì
thế, trong suốt cuộc đời, các em được trao cho một định hướng căn bản và
được đảm bảo một tương lai tốt lành; sự định hướng này sẽ được tăng cường hơn nữa
trong bí tích Thêm Sức với sự đóng ấn của Chúa Thánh Thần.
44. Đặc
tính bí tích của đức tin được thể hiện cao nhất nơi bí tích Thánh Thể. Bí tích
Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng quý giá của đức tin: một sự gặp gỡ với Đức Ky-tô
đích thực đang hiện diện nơi hành động tột cùng của tình yêu Ngài, quà tặng-trao
ban-sự sống của chính Ngài. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta tìm thấy sự giao
hội của hai chiều kích đức tin.
Một mặt, có chiều kích của lịch sử: Thánh Thể là một hành động của sự tưởng nhớ,
một tặng phẩm của màu nhiệm tình yêu mà trong đó quá khứ, biến cố chết và phục
sinh, chứng tỏ khả năng của nó mở ra một tương lai, báo hiệu sự viên mãn cuối
cùng. Phụng vụ nhắc nhớ cho chúng ta về điều này bằng cách nhắc lại lời hodie “hôm nay“ của các màu nhiệm cứu độ. Mặt
khác, chúng ta cũng tìm thấy chiều kích dẫn đưa từ thế giới hữu hình sang thế
giới vô hình. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta học biết được các chiều cao sâu
của thực tại. Bánh miến và rượu được biến thành Mình và Máu Chúa Ky-tô – Đấng
đã trở thành hy tế dâng lên Thiên Chúa Cha trong lễ vượt qua của Ngài: sự vận động
này thu hút chúng ta, thể xác và linh hồn, đi vào sự vận động của tất cả sự tạo
dựng tiến tới sự viên mãn của nó trong Thiên Chúa.
45. Trong
việc cử hành các bí tích, Giáo Hội truyền giao sự tưởng niệm của mình, đặc biệt
thông qua việc tuyên xưng đức tin. Kinh Tin Kính không chỉ liên quan đến việc
đưa ra sự tán thành của một người với một mớ các chân lý trừu tượng, mà còn là - khi nó được đọc-
toàn thể đời sống được lôi kéo để đi vào một cuộc hành trình hướng về sự hiệp
thông trọn vẹn với Thiên Chúa Hằng Sống. Chúng ta có thể nói rằng, trong kinh
Tin Kính, các tín hữu được mời gọi đi vào màu nhiệm mà họ tuyên xưng và được nó
biến đổi. Để hiểu điều này có ý nghĩa gì, trước hết chúng ta hãy nhìn vào nội
dung của kinh Tin Kính. Nó có một cấu trúc mang tính tam vị: Thiên Chúa Cha và
Chúa Con thông hiệp trong Thần Khí tình yêu. Vì thế người tín hữu tuyên xưng rằng:
đây là cốt lõi của tất cả sự hiện hữu, huyền nhiệm sâu thẳm nhất của mọi thực tại,
một sự hiệp thông thần linh. Kinh Tin Kính cũng chứa đựng một tuyên xưng Ky-tô
học: nó đưa chúng ta xuyên qua tất cả các màu nhiệm nơi cuộc đời của Chúa Ky-tô
cho đến cái chết, sự phục sinh và về trời của Ngài trước khi Ngài trở lại trong
vinh quang. Nó nói cho chúng ta rằng, Thiên Chúa của sự hiệp thông, của tình
yêu qua lại giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, có khả năng
ôm lấy lịch sử nhân loại và thu hút nó đi vào sự hiệp thông sống động của Thiên
Chúa, mà sự hiệp thông ấy bắt nguồn và viên mãn trong chính Thiên Chúa
Cha. Người tín hữu tuyên xưng đức tin của mình, được tiếp nhận - có thể nói như
vậy - vào chân lý được tuyên xưng. Người tín hữu không thể đọc một cách chân thật
lời của kinh Tin Kính mà không bị thay đổi, không trở nên một phần của lịch sử
yêu thương mà nó ôm ấp chúng ta và trải rộng sự hiện hữu của chúng ta, làm nó
trở thành một phần của sự thông hiệp vĩ đại, chủ thể cuối cùng của việc đọc kinh
Tin Kính, cụ thể là Giáo Hội. Tất cả các chân lý mà chúng ta tin vào đều hướng
tới màu nhiệm đời sống mới của đức tin như là một cuộc hành trình thông hiệp với
Thiên Chúa Hằng Sống.
Đức
tin, sự Cầu nguyện và Mười Điều Răn
46. Có
hai yếu tố thiết yếu khác trong việc thông truyền trung thực ký ức của Giáo Hội.
Thứ nhất là lời Kinh của Chúa: Kinh “Lạy Cha”. Ở đây, người Ky-tô hữu học biết
sự chia sẻ trong kinh nghiệm thiêng liêng của chính Chúa Ky-tô, và nhìn mọi thứ
thông qua đôi mắt của Ngài. Từ Ngài – Đấng là ánh sáng bởi ánh sáng, Chúa Con
duy nhất được sinh ra từ Chúa Cha, chúng ta đến để nhận biết Thiên Chúa và vì vậy
có thể thắp lên nơi người khác ngọn lửa khao khát đến gần Ngài.
Điều quan trọng tương tự là mối liên hệ giữa Đức tin và Mười Điều
Răn. Đức tin, như chúng ta đã nói, tạo ra một dạng thức của một chuyến hành
trình, một con đường để bước theo, bắt đầu bằng một sự gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng
Sống. Nó ở trong ánh sáng đức tin, ánh sáng của sự trao phó cho Thiên Thiên
Chúa – Đấng Cứu Độ, rằng Mười Điều Răn mang chân lý sâu xa nhất của nó, khi được
đọc ngay từ các lời giới thiệu về các điều răn này: “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa
của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh.20,2). Mười Điều
Răn không phải là một bộ điều răn có tính tiêu cực, nhưng là những hướng dẫn cụ
thể được ban ra tại sa mạc của sự ích kỷ và bản ngã tự rào kín nhằm đi vào cuộc
đối thoại với Thiên Chúa, được bồng ẵm bởi lòng
thương xót của Ngài, và sau đó mang lòng thương xót ấy cho người khác. Vì thế,
đức tin tuyên xưng tình yêu của Thiên Chúa, nguồn gốc và trụ cột của muôn loài
muôn vật, và để tự bản thân nó được hướng dẫn bởi tình yêu này nhằm để tiến bước
trong cuộc hành trình tiến về sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa. Mười Điều
Răn xem ra như là con đường của sự biết ơn, của sự đáp trả tình yêu, được trao
sức mạnh, bởi trong đức tin, chúng ta dễ dàng tiếp thu kinh nghiệm về tình yêu
biến đổi ấy của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và con đường này nhận được ánh
sáng mới từ lời dậy của Chúa Giê-su trong Bài Giảng trên Núi (x. Mt.5-7).
Vì thế, đây là bốn yếu tố tạo thành kho ký ức mà Giáo Hội chuyển
giao: tuyên xưng đức tin, cử hành các bí tích, sự tuân giữ mười điều răn, và cầu
nguyện. Việc truyền thụ Giáo lý của Hội Thánh, theo truyền thống, được sắp xếp
xung quanh bốn yếu tố ấy; điều này bao gồm Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, một
sự hỗ trợ căn bản cho hoạt động đồng nhất mà với hoạt động ấy, Giáo Hội thông
truyền toàn bộ nội dung đức tin của mình: “tất cả bản thân Giáo Hội và tất cả
những gì mà Giáo Hội tuyên xưng". [39]
Sự Thống nhất và Toàn vẹn của Đức tin
47. Sự
hiệp nhất của Giáo Hội trong không gian và thời gian được nối liền với sự thống
nhất của đức tin: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí … một Đức tin” (Ep.4,4-5).
Ngày nay chúng ta có thể hình dung ra được có một nhóm người đang hiệp nhất với
nhau trong cùng một công việc chung, yêu thương lẫn nhau, sẻ chia cùng một số
phận và có cùng một mục đính. Nhưng chúng ta cảm thấy khó tưởng tượng về một sự
hiệp nhất trong một chân lý. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng, một sự hiệp nhất
của loại này không thích hợp với sự tự do tư tưởng và sự tự chủ cá nhân. Nhưng
kinh nghiệm của tình yêu chỉ cho chúng ta thấy rằng, một cái nhìn chung là có
thể, vì thông qua tình yêu, chúng ta học được cách nhìn thực tại thông qua đôi
mắt của người khác, không phải như cái gì đó làm giảm bớt, hạn chế cái nhìn của
chúng ta, mà thay vào đó làm phong phú cái nhìn của chúng ta. Tình yêu chân thật,
giống như tình yêu của Thiên Chúa, rốt cục đòi hỏi phải có sự thật, và sự chiêm
nghiệm chung về chân lý Đức Giê-su Ky-tô, làm cho tình yêu có thể trở nên sâu nặng
và bền lâu. Đây cũng là niềm vui to lớn của đức tin: một sự hiệp nhất trong một
thân thể và một tinh thần. Thánh Lê-ô Cả đã có thể nói: “nếu đức tin không là một,
thì nó không phải là đức tin” [40].
Bí ẩn của sự hiệp nhất này là gì? Trước hết, đức tin là “một”, bởi
vì tính độc nhất của Thiên Chúa – Đấng được biết tới và được tuyên xưng. Tất cả
các tín điều đều nói về Thiên Chúa; chúng là những con đường để nhận biết Ngài
và các công việc của Ngài. Cho nên, sự hiệp nhất của chúng vượt ra xa bất kỳ sự
định hình nào của lý trí con người. Chúng sở hữu một sự thống nhất và làm cho
chúng ta trở nên phong phú hơn bởi vì nó được trao cho chúng ta và làm chúng ta
nên một.
Đức tin cũng là một bởi nó được định hướng tới một Thiên Chúa, tới
sự sống nơi Chúa Giê-su, tới lịch sử cụ thể mà Ngài chia sẻ với chúng ta. Thánh
I-rê-nê thành Lyon đã làm rõ điều này trong một cuộc đấu tranh chống lại phái
Duy Tri. Phái Duy Tri cho rằng, có hai loại đức tin: một là đức tin thô sơ,
không hoàn hảo, phù hợp với đại quần chúng, nó vẫn còn ở cấp độ nhục thể của Chúa
Giê-su và sự chiêm nghiệm các màu nhiệm của Ngài; và hai là đức tin sâu xa hơn,
hoàn hảo hơn, được dành cho một nhóm người đã được thụ giáo, tức những người về
mặt trí tuệ có khả năng vượt lên trên nhục thể của Chúa Giê-su hướng tới các
màu nhiệm thần tính. Trái ngược với tuyên bố này, mà thậm chí ngay chính nó cũng
tạo ra một sự hấp dẫn nhất định, và có những người đi theo nó, Thánh I-rê-nê nhấn
mạnh rằng, chỉ có một đức tin, vì nó được dựa vào biến cố cụ thể của sự hóa
thành xác thể và không bao giờ có thể vượt trên nhục thể và con người lịch sử của
Chúa Ky-tô, bởi Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình một cách đầy đủ, trọn vẹn
nơi nhục thể đó. Vì lý do này, Thánh nhân nói, không có sự khác biệt trong đức
tin của “những người có thể thuyết trình dài về nó” và “những người cũng nói
nhưng nói ít hơn”, giữa những người vĩ đại hơn và những người thấp kém hơn: loại
người thứ nhất không thể làm tăng thêm đức tin, và loại người thứ hai cũng
không làm giảm bớt đức tin [41].
Cuối cùng, đức tin là một, bởi nó được chia sẻ bởi toàn thể Giáo Hội,
mà Giáo Hội là một thân thể và một Thánh Thần. Trong sự hiệp thông của một chủ
thể là Giáo Hội, chúng ta lãnh nhận được một cái nhìn chung. Bằng việc tuyên
xưng cùng một đức tin, chúng ta đứng vững trên cùng một tảng đá, chúng ta được
biến đổi bởi cùng một Thần Khí tình yêu, chúng ta tỏa ra một ánh sáng và chúng
ta có một cái nhìn xuyên thấu thực
tại.
48. Mà
bởi đức tin là một, nên nó phải được tuyên xưng trong tất cả sự tinh tuyền và toàn
vẹn của nó. Quả thế, bởi tất cả các
tín điều đều có mối liên hệ với nhau, nên việc phủ nhận một trong các tín điều,
thậm chí ngay cả những tín điều xem ra ít quan trọng nhất, điều đó có nghĩa là
đã làm méo mó toàn bộ. Mỗi giai đoạn lịch sử có thể tìm thấy điểm này hoặc điểm
kia của đức tin dễ hơn hoặc khó chấp nhận hơn: vì thế cần thận trọng trong việc
đảm bảo rằng, nguồn gốc của đức tin được chuyển giao trong sự toàn vẹn của nó
(x. Tm.6,20) và rằng, mọi khía cạnh của việc tuyên xưng đức tin được nhấn mạnh
một cách thích đáng và đúng lúc. Qủa thực, vì sự thống nhất của đức tin là sự
hiệp nhất của Giáo Hội, nên loại trừ một số điều gì đó từ trong kho tàng của đức
tin có nghĩa là đã loại trừ một điều gì đó từ sự chân thật của sự hiệp thông. Các Giáo Phụ đã mô tả đức tin như là một
thân thể, mà thân thể ấy gồm có các chi thể khác nhau, bằng sự tương đồng với
thân thể của Đức Ky-tô và sự nối dài của nó trong Giáo Hội [42]. Sự toàn vẹn của đức tin cũng được
gắn chặt với hình ảnh của Giáo Hội như một trinh nữ và sự chung thủy của mình trong tình yêu đối với Chúa Ky-tô, phu
quân đích thực của mình; làm tổn hại đức tin có nghĩa là làm tổn hại sự thông
hiệp với Thiên Chúa [43]. Vì thế, sự hiệp nhất của đức tin là sự hiệp nhất của
một thân thể sống động; điều này đã được Chân Phước Gio-an Hen-ri Niu-mân nêu
ra một cách rõ ràng khi ngài liệt kê ra các chú ý tiêu biểu trong việc nhận ra
sự liên tục của Giáo lý, mà ở đây có sự vượt qua mọi thời với sức mạnh có thể
thu nhận mọi thứ mà nó gặp trong các môi trường khác nhau, cũng như tại chính
nơi mà nó hiện diện, và trong các nền văn hóa khác nhau mà nó gặp [44], thanh lọc
tất cả và mang chúng đến với vẻ đẹp tinh tuyền nhất. Vì thế, đức tin được biểu
tỏ như là phổ quát và công giáo, bởi ánh sáng của nó trải rộng ra để chiếu rọi
toàn bộ vũ trụ và toàn bộ lịch sử.
49. Với
tư cách là người kế vị các Tông Đồ - Giáo Hội đã được Thiên Chúa trao ban một tặng
phẩm như là một sự trợ giúp đối với sự hiệp nhất trong đức tin cũng như tính
thông truyền trọn vẹn của nó. Trên phương diện này, sự liên tục nơi ký ức của
Giáo Hội được đảm bảo, và sự tiếp cận với nguồn mạch mà từ đó đức tin chảy ra
có thể đạt tới được sự chắc chắn. Vì thế, sự đảm bảo liên tục với các nguồn gốc,
được trao cho những người sống theo một cách phù hợp với đức tin sống động mà
Giáo Hội đang kêu gọi truyền giao. Giáo Hội phụ thuộc vào sự trung thành của
các chứng nhân mà họ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để giao phó cho sứ vụ này.
Vì lý do ấy, Quyền Giáo huấn của Hội Thánh luôn luôn nói trong sự vâng phục đối
với những điều mà đức tin được dựa
vào; nó đáng tin cậy vì sự trung tín của nó trước lời mà nó nghe thấy, duy trì
và trình bày lại một cách chi tiết [45]. Trong lời tạm biệt của Thánh
Phao-lô gửi cho các kỳ mục tại Giáo đoàn Ê-phê-xô ở Mi-lê-tô, mà Thánh Lu-ca đã
thuật lại cho chúng ta trong sách Tông Đồ Công Vụ, ngài làm chứng rằng, ngài đã
thực hiện nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài để “rao giảng cho anh em
tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv.20,27). Nhờ Quyền Giáo huấn của Giáo Hội, ý định
này có thể đến được với chúng ta trong sự toàn vẹn của nó, và với nó niềm vui
có thể được thực hiện một cách trọn vẹn.
CHƯƠNG IV
NGƯỜI
ĐÃ CHUẨN BỊ CHO CÁC NGÀI MỘT THÀNH TRÌ
(cf. Heb 11:16)
Đức tin và sự Thiện phổ quát
50. Trong
khi trình bày câu truyện về các tổ phụ cũng như các người nam và người nữ công
chính của Cựu Ước, Thư gửi tín hữu Do Thái đã nhấn mạnh đến một khía cạnh thiết
yếu của đức tin nơi họ. Đức tin ấy không chỉ được trình bày như là một cuộc
hành trình, mà còn như là một quá trình xây dựng, chuẩn bị một địa điểm mà ở đó
con người có thể cư ngụ cùng nhau và với nhau. Người xây dựng đầu tiên là ông
No-ê – ông đã cứu gia đình của ông trong một con tàu (Dt.11,7). Tiếp theo là
Ab-ra-ham, người được nói đến rằng, nhờ đức tin ông đã ở trong các lều vì ông
trông chờ một thành có nền móng vững chắc (x. Dt.11,9-10). Bởi đức tin giúp đi
tới một thực tại mới cũng như một sự chắc chắn mới mà chỉ một mình Thiên Chúa mới
có thể ban phát. Nếu người có đức tin tìm thấy sự hỗ trợ trong Thiên Chúa tín
trung, Thiên Chúa Amen (x. Is.65,16), và như vậy có thể tự trở nên vững chắc,
thì chúng ta giờ đây cũng có thể nói rằng, sự vững chắc của đức tin biểu thị một
thành trì mà Thiên Chúa đang chuẩn bị cho con người. Đức tin chỉ biểu lộ mức độ
vững chắc trong các mối quan hệ của con người khi mà Thiên Chúa hiện diện ở giữa
họ. Đức tin không chỉ tặng ban sự vững chắc bên trong, sự tin tưởng chắc chắn
vào Đấng mà họ tin, mà nó còn chiếu giãi ánh sáng của nó trên mọi mối quan hệ của
con người, bởi nó được bắt nguồn từ tình yêu và phản chiếu tình yêu của chính
Thiên Chúa. Thiên Chúa – Đấng tự mình đáng tin cậy - ban tặng cho chúng ta một
thành trì đáng tin cậy.
51. Đúng
vậy, bởi nó được nối liền với tình yêu (x. Gal.5,6), nên ánh sáng đức tin được
đặt cụ thể trong việc phục vụ công ích, luật pháp và hòa bình. Đức tin được bắt
nguồn từ sự gặp gỡ với tình yêu căn nguyên của Thiên Chúa, ở đó ý nghĩa và sự tốt
lành của đời sống chúng ta trở nên rõ ràng; đời sống của chúng ta được chiếu
sáng tới một mức độ mà nó đi vào không gian được mở ra, bởi tình yêu ấy, tới một
mức độ mà nó trở thành, nói cách khác đi, một con đường và một thực tiễn dẫn đến
sự viên mãn của tình yêu. Ánh sáng đức tin có khả năng làm tăng thêm sự phong
phú cho các mối tương quan của con người, khả năng duy trì, đáng tin cậy và làm
phong phú cho đời sống của chúng ta. Đức
tin không kéo chúng ra ra khỏi thế giới này, hoặc tỏ ra không tương thích với
những mối bận tâm cụ thể của những người nam và người nữ trong thời đại chúng
ta. Không có một tình yêu đáng tin cậy thì không có cái gì có thể thực sự duy
trì được sự hiệp nhất giữa những người nam và người nữ. Lúc ấy, sự hiệp nhất của
con người sẽ chỉ có thể hình dung được dựa trên cơ sở của những lợi ích, trên sự
tính toán của những cái hơn thiệt hoặc trên nỗi sợ hãi nhưng không dựa trên sự thiện phổ quát, không dựa trên niềm
vui mà chỉ nhờ vào sự hiện diện của người khác mới có thể đem lại. Đức tin làm
cho chúng ta nhận thức rõ được cấu trúc của các mối quan hệ nơi con người, bởi
nó nắm được nền tảng cuối cùng của nó và số phận sau cùng trong Thiên Chúa,
trong tình yêu thương của Ngài, và vì thế nó chiếu tỏa ánh sáng trên tính nghệ
thuật của cấu trúc; được hiểu theo nghĩa hẹp là nó trở nên một sự giúp ích cho
sự thiện phổ quát. Đức tin thực sự là một điều tốt lành cho mọi người; nó là một
sự tốt lành phổ quát. Ánh sáng của nó không đơn giản chỉ chiếu rọi bên trong
Giáo Hội, cũng không chỉ phục vụ việc xây dựng một thành trì vĩnh cửu trong lai
thời, mà nó giúp chúng ta xây dựng các xã hội của chúng ta theo cách mà chúng
có thể tạo ra một hành trình tiến về một tương lai đầy hy vọng. Thư gửi Do Thái
đã đưa ra một ví dụ về khía cạnh này khi nó gọi tên, ở giữa những người nam và
người nữ mang đức tin, Samuel và Đa-vid, đức tin đã làm cho các vị “thực hành đức
công chính” (Dt.11,33). Sự thể hiện này nhắc đến đức công chính của họ trong
nhiệm vụ cai trị, trong sự khôn ngoan để mang hòa bình đến cho dân (x. 1 Sm.
12,2-5; 2 Sm.8,15). Đôi tay của đức tin được giơ lên trời, đồng thời nó bắt tay
vào để xây dựng trong đức ái một thành trì dựa trên các mối quan hệ mà trong đó
tình yêu của Thiên Chúa được đặt làm nền tảng.
Đức tin và Gia đình
52. Trong
cuộc hành trình tiến về thành trì tương lai của Ab-ra-ham, Thư gửi tín hữu Do
Thái đã đề cập đến lời chúc phúc đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
(x. Dt.11,20-21). Môi trường đầu tiên mà ở đó đức tin khai sáng thành trì của
con người là gia đình, mà đầu
tiên và trước hết đó là sự hợp nhất bền vững giữa một người nam và một người nữ
trong hôn nhân. Sự hợp nhất này bắt nguồn từ tình yêu của họ, như là một dấu chỉ
về sự hiện diện của tình yêu của chính Thiên Chúa, và bắt nguồn từ sự thừa nhận
và chấp nhận sự tốt lành trong sự dị biệt của giới tính, nhờ đó vợ chồng có thể
trở thành một xác thể (x. Gen.2,24) và được làm cho có thể sinh ra một sự sống
mới, một sự biểu lộ điều thiện, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng
Sáng Tạo. Được đặt trên nền tảng của tình yêu thương này, một người nam và một
người nữ có thể đoan hứa với nhau về một tình yêu hỗ tương trong một cử chỉ cam
kết toàn bộ đời sống của họ và phản ánh nhiều đặc điểm của đức tin. Thề hứa yêu
thương mãi mãi là có thể khi chúng ta nhận thức được một kế hoạch lớn hơn cả những
ý kiến và công việc của chúng ta,
một kế hoạch mà nó duy trì, nâng đỡ chúng ta, và làm cho chúng ta có thể dâng
toàn bộ tương lai cho người mà chúng ta yêu. Đức tin cũng giúp chúng ta hiểu thấu
- trong tất cả sự sâu thẳm và phong phú của nó – sự sinh ra con cái, như là một
dấu chỉ của tình yêu của Đấng Sáng Tạo – Đấng đã trao phó cho chúng ta màu nhiệm
của một con người mới. Bà Sa-ra, nhờ đức tin, đã trở thành một người mẹ, vì bà
đã tin tưởng vào sự trung tín của Thiên Chúa đối với lời hứa của Ngài (x.
Dt.11,11).
53. Trong
gia đình, đức tin đi cùng với mọi giai đoạn của cuộc đời, bắt đầu với tuổi ấu
thơ: trẻ em học biết để tin tưởng vào tình yêu của cha mẹ chúng. Đây là lý do tại
sao nó rất quan trọng, đến nỗi trong các gia đình, cha mẹ cổ võ, khuyến khích sự
thể hiện chung về đức tin, điều đó có thể giúp các em dần dần lớn lên trong đức
tin của chính các em. Đặc biệt những người trẻ đang đi qua giai đoạn của quãng
đời rất phức tạp, phong phú và quan trọng đối với đức tin của họ, cần cảm thấy
sự gần gũi không ngừng và sự hỗ trợ, nâng đỡ của gia đình và Giáo Hội trong cuộc
hành trình đức tin của họ. Tất cả chúng ta đều đã thấy, trong những Ngày Giới
Trẻ Thế Giới, niềm vui mà các người trẻ thể hiện trong đức tin của họ cũng như
trong sự khao khát của họ cho một đời sống đức tin phong phú và vững chắc hơn
bao giờ hết. Những người trẻ muốn sống một cuộc sống trong sự tràn đầy nhất. Việc
gặp gỡ Chúa Ky-tô, để mình được bắt kịp và được hướng dẫn bởi tình yêu của
Ngài, đã mở rộng các chân trời hiện hữu, cho nó một niềm hy vọng chắc chắn mà sẽ
không phải thất vọng. Đức tin không phải là nơi ẩn náu của người nhát gan,
nhưng là cái gì đó làm tăng cường đời sống của chúng ta. Nó làm chúng ta nhận
thức được một tiếng gọi to lớn, thiên hướng của tình yêu. Nó đảm bảo với chúng
ta rằng, tình yêu này là đáng tin cậy và đáng ôm lấy, bởi vì nó được dựa trên sự
trung tín của Thiên Chúa, và nó mạnh mẽ hơn bất kỳ sự yếu đuối nào của chúng
ta.
Một Ánh sáng cho Cuộc sống trong Xã hội
54. Được
hấp thụ và được đào sâu trong gia đình, đức tin trở thành một ánh sáng có khả
năng chiếu soi tất cả các mối quan hệ của chúng ta trong xã hội. Nó đặt chúng
ta trên con đường của tình huynh đệ như một trải nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Tính hiện đại cần được xây dựng trên một
tình huynh đệ phổ quát dựa trên sự bình đẳng, như chúng ta đã dần dà nhận ra rằng,
tình huynh đệ này, nếu thiếu vắng sự quy chiếu về một vị Cha chung như là nền tảng
tối hậu của nó, thì không thể kéo dài. Chúng ta cần trở lại với nền tảng đích
thực của tình huynh đệ. Lịch sử của đức tin đã bắt đầu từ sự khởi phát của một
lịch sử tình huynh dệ, dù có thể có sự xung đột. Thiên Chúa gọi Ab-ra-ham ra khỏi
xứ sở của ông để tiến về phía trước, và hứa làm cho ông thành một quốc gia lớn,
một dân tộc vĩ đại mà sự chúc phúc của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại phụ
thuộc vào họ. Khi lịch sử cứu độ diễn tiến, nó trở nên rõ ràng rằng, Thiên Chúa
muốn làm cho mọi người chia sẻ với nhau như là những anh chị em của nhau trong
lời chúc phúc đó, điều sẽ đạt tới được sự viên mãn của nó trong Chúa Giê-su,
ngõ hầu tất cả mọi người có thể trở nên một. Tình yêu vô biên của Chúa Cha cũng
đến với chúng ta, trong Chúa Giê-su, thông qua những người anh chị em của chúng
ta. Đức tin dậy chúng ta nhìn thấy rằng, mọi người nam và người nữ đại diện cho
một lời chúc phúc đối với tôi, rằng ánh sáng của khuôn mặt Thiên Chúa chiếu rọi
trên tôi thông qua khuôn mặt của các anh chị em của tôi.
Cái nhìn của đức tin Ky-tô giáo đã mang lại biết bao lợi ích cho
thành trì của con người vì cuộc sống chung của họ! Nhờ đức tin, chúng ta đến để
hiểu được nhân phẩm độc nhất của mỗi người, tức điều đã không được nhìn thấy một
cách rõ ràng trong thời xa xưa.Vào thế kỷ thứ hai, Celsus – một người ngoại
giáo – đã chê bai những người Ky-tô giáo về một ý tưởng mà ông cho là ngốc nghếch
và ảo tưởng: cụ thể là, Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới cho con người, đặt con
người ở vị trí cao trọng nhất của toàn thể vũ trụ. “Tại sao cứ phải nói rằng [cỏ]
lớn lên vì lợi ích của con người hơn là vì tính hoang dại của các súc vật?” [46] “Nếu chúng ta nhìn
xuống trái đất từ các tầng trời, thì liệu thực sự có sự khác biệt nào giữa các
hoạt động của chúng ta và các hoạt động của con ong, con kiến không?”
[47]. Trọng tâm của đức tin trong Kinh Thánh là tình yêu thương của Thiên
Chúa, là sự quan tâm cụ thể của Ngài đối với mọi người, và kế hoạch cứu độ của
Ngài ôm lấy toàn bộ nhân loại và tất cả các tạo vật, thể hiện tuyệt đỉnh nơi sự
nhập thể, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ky-tô. Không có cái nhìn sâu vào những thực tại
này, thì chẳng có tiêu chuẩn nào để phân biệt được cái gì làm cho sự sống con
người quý giá và độc nhất. Con người đánh mất đi vị trí của mình trong vũ trụ,
bị đặt để trong sự bấp bênh của tự nhiên, hoặc từ chối trách nhiệm đạo đức hợp
lý của mình, hoặc lại tiếp tục với một sự lựa chọn của sự phán xét tuyệt đối,
được phú cho một sức mạnh không giới hạn để điều khiển thế giới xung quanh
mình.
55. Mặt
khác, đức tin, bằng việc mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Sáng Tạo, làm cho
chúng ta có thể tôn trọng toàn bộ thế giới thụ tạo nhiều hơn nữa, và nhận ra
trong đó một trật tự ngữ pháp được viết bởi bàn tay của Thiên Chúa và một nơi
cư ngụ được giao phó cho sự bảo vệ và chăm sóc của chúng ta. Đức tin cũng giúp
chúng ta nghĩ ra các mô hình phát triển được dựa trên không chỉ lợi ích và lợi
nhuận, nhưng còn xem sự sáng tạo như là một quà tặng mà tất tả chúng ta mang
ơn; nó dậy chúng ta sáng tạo ra một dạng thức cai trị có tính công lý, trong sự
nhận ra rằng, quyền bính đến từ Thiên Chúa và là phương tiện để phục vụ lợi ích
chung. Đức tin cũng tạo ra khả năng tha thứ, điều thông thường cần thời gian và
nỗ lực, kiên nhẫn và thứ tha. Tha thứ là điều có thể thực hiện khi chúng ta
khám phá ra rằng, điều thiện luôn luôn được ưu tiên trước và có sức mạnh hơn điều
xấu, và rằng lời mà Thiên Chúa đảm bảo cho đời sống chúng ta sâu xa hơn mọi phủ
nhận của chúng ta. Từ một quan điểm nhân loại học thuần túy, sự hiệp nhất luôn
cao hơn sự chia rẽ; thay vì tránh né sự chia rẽ, chúng ta cần đương đầu với nó
trong một nỗ lực để giải quyết và vượt lên nó, mang đến cho nó một sự liên kết
trong một chuỗi, như là một tiến trình tiến tới sự hiệp nhất.
Khi đức tin bị yếu đi, thì nền tảng của cuộc sống cũng có nguy cơ
bị yếu đi, như Nhà thơ T.S. Eliot đã cảnh báo: “Bạn có cần phải nói cho bạn biết,
thậm chí ngay cả trong những thành tựu khiêm tốn nhất, khi bạn có thể lấy làm
kiêu hãnh theo cách lịch thiệp của xã hội, thì cũng sẽ hầu như không tồn tại
lâu dài hơn đức tin mà nhờ đó chúng có ý nghĩa?” [48]. Nếu chúng ta loại bỏ đức
tin vào Thiên Chúa khỏi các thành trì của chúng ta, thì sự tin tưởng lẫn nhau sẽ
trở nên suy yếu, chúng ta sẽ duy trì sự hiệp nhất chỉ bằng sự sợ hãi và sự bền
vững của chúng ta sẽ bị đe dọa. Trong
Thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy rằng, “Thiên Chúa đã không hổ thẹn để
cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một
thành trì cho các ngài” (Dt.11,16). Ở đây, sự thể hiện “không hổ thẹn” được nối
với sự thừa nhận công khai. Mục đích là để nói rằng Thiên Chúa, bằng những hành
động cụ thể, đã làm công khai sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, và rằng
Ngài mong muốn củng cố, tăng cường mọi mối tương quan của con người. Qủa thực, có
phải chúng ta là những người cảm thấy hổ thẹn khi gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa
của chúng ta không? Rằng chúng ta là những người không tuyên xưng Ngài theo
đúng nghĩa trong cuộc sống công khai của chúng ta? Đức tin chiếu rọi cuộc sống
và xã hội. Nếu nó sở hữu một loại ánh sáng có tính sáng tạo cho mỗi khoảnh khắc
mới của lịch sử, thì bởi vì nó đặt mọi sự kiện, biến cố trong mối tương quan với
nguồn gốc và số mệnh của tất cả mọi thứ trong Chúa Cha.
Sự An ủi và Sức mạnh giữa những Thử thách Gian
truân
56. Khi viết cho
các Tín hữu ở Cô-rin-tô về sự đau khổ và nỗi khổ cực của mình, Thánh Phao-lô đã
liên kết đức tin của ngài với sự rao giảng Phúc Âm của ngài. Ở nơi chính bản
thân mình, ngài nhận ra sự thực thi đoạn Kinh Thánh
như đã chép: “Tôi đã tin, nên tôi mới nói”. Sự nhắc đến ở đây là nhắc đến đoạn
Thánh Vịnh 116, trong đó tác giả Thánh Vịnh đã kêu lên rằng: “Tôi đã tin cả khi
mình đã nói : "Ôi nhục nhã ê chề !" (Tv.10). Nói về đức tin thường
liên quan đến nói về các thử thách đau khổ, nhưng chính xác là vì trong sự thử
thách như thế Thánh Phao-lô đã nhìn thấy sự loan truyền Phúc Âm có tính thuyết
phục nhất, vì lẽ trong sự yếu đuối và đau khổ, chúng ta khám phá ra được sức mạnh
của Thiên Chúa thắng vượt những yếu hèn và đau khổ của chúng ta. Thánh Tông Đồ
tự mình đã trải nghiệm một cuộc chết đi để trở nên sự sống cho các Ky-tô hữu
(x. 2 Cr.4,7-12). Trong cơn thử thách, đức tin mang lại ánh sáng, trong khi đau
khổ và sự yếu đuối làm cho nó trở nên rõ ràng rằng, “chúng tôi không rao giảng
chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa” (2 Cr.4,5). Chương mười
một của Thư gửi tín hữu Do Thái đã kết luận với một sự nhắc đến những người chịu
đau khổ vì đức tin (x Dt.11,35-28); nổi bật trong số những người này là Mô-sê, ông đã tự mang lấy những điều bị ngược
đãi của Đấng Mes-si-a (x. v. 26). Người Ky-tô hữu biết rằng, không thể loại bỏ
được đau khổ, nhưng đau khổ có thể có ý nghĩa và trở nên một hành động của tình
yêu và sự trao phó nơi bàn tay của Thiên Chúa – Đấng không bao giờ từ bỏ chúng
ta; theo cách này nó có thể phục vụ như là một khoảnh khắc làm lớn lên trong đức
tin và tình yêu. Bằng việc chiêm ngắm sự hiệp thông của Chúa Ky-tô với Thiên
Chúa Cha, thậm chí nơi đỉnh điểm sự đau khổ của Ngài trên thập giá (x
Mc.13,34), người Ky-tô hữu học để chia sẻ trong cùng một cái nhìn của Chúa
Giê-su. Thậm chí sự chết được chiếu rọi và có thể được trải nghiệm như là tiếng
gọi cuối cùng đối với đức tin, cuối cùng “Hãy rời bỏ xứ sở” (St.12,1), cuối
cùng “Hãy đến!” được nói bởi Thiên Chúa Cha, với Đấng mà chúng ta dám từ bỏ
chính mình, trong sự tin tưởng rằng Ngài sẽ giữ chúng ta vững mạnh, thậm chí
trong những bước đi cuối cùng trong cuộc hành trình của chúng ta.
57. Ánh
sáng đức tin cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới
này. Có biết bao nhiêu người nam và người nữ mang đức tin đã tìm thấy những ngọn
đèn chiếu sáng từ chính nơi những người phải chịu khổ đau! Như trường hợp của Thánh Phan-xi-cô
As-si-si và người phong cùi, hay Chân phúc Tê-re-sa Cal-cut-ta và người nghèo.
Họ đã hiểu được màu nhiệm nơi các việc làm của họ. Khi đến với những người chịu
đau khổ, chắc chắn họ đã không thể loại trừ tất cả các đau khổ hoặc giải thích
được mọi sự xấu. Đức tin không phải là một loại ánh sáng tỏa sáng mọi bóng tối
của chúng ta, nhưng là một ngọn đèn hướng dẫn những bước chân của chúng ta trong
đêm tối và đủ cho cuộc hành trình của chúng ta. Trước những người đau khổ, Thiên Chúa không
cung cấp những luận cứ mà với nó có thể giải thích mọi thứ; đúng hơn, sự trả lời
của Ngài là luận cứ của một sự đồng
hiện hữu, một lịch sử của sự thánh thiện đụng chạm đến mọi câu truyện đau khổ
và mở ra một tia ánh sáng. Trong Chúa Ky-tô, Thiên Chúa tự mình muốn chia sẻ
con đường này với chúng ta và ban cho chúng ta cái nhìn của Ngài nhờ vậy chúng
ta có thể nhìn thấy ánh sáng trong đó. Chúa Ky-tô là người đã từng chịu đau khổ,
là “Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt.12,2).
Đau khổ nhắc nhở cho chúng ta rằng, sự phục vụ của đức tin đối với
lợi ích chung luôn luôn là sự phục vụ của hy vọng – một sự hy vọng nhìn thấy
phía trước trong sự nhận thức rằng, chỉ khi đến từ Tiên Chúa, đến từ Chúa
Giê-su Phục Sinh, thì xã hội của chúng ta mới có thể tìm được nền tảng vững chắc
và bền lâu. Theo ý nghĩa này, đức tin được nối liền với hy vọng, bởi vì nếu nơi
cư ngụ của chúng ta ở nơi trần thế này đang bị hao mòn đi, thì chúng ta có một
nơi cư ngụ vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị nơi Chúa Ky-tô, trong thân thể của
Ngài (x. 2 Cr. 4,16 – 5,5).
Trong sự kết hợp với đức tin và đức ái, niềm hy vọng đưa chúng ta
tới một tương lai chắc chắn, được thiết định ngược với một chân trời khác của những cám dỗ viển vông mà các ngẫu tượng
của thế gian này gợi mở, nhưng mang lại cho đời sống hằng ngày của chúng ta sức
mạnh và động lực mới. Chúng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tước mất, hoặc đừng
cho phép niềm hy vọng của chúng ta trở nên lu mờ do những câu trả lời và lời giải
đáp dễ dãi cản trở bước tiến của chúng ta, “phân mảng” thời gian và biến nó
thành không gian. Thời gian luôn luôn vĩ đại hơn nhiều so với không gian. Không
gian làm đóng băng các tiến trình, trái lại thời gian đẩy tiến trình đi về
tương lai và khuyến khích chúng ta tiến bước trong hy vọng.
Em
thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em
(Lc.1,45)
58. Trong
dụ ngôn người gieo hạt giống, Thánh Lu-ca đã kể lại cho chúng ta những lời của
Chúa về “đất tốt”: Đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại,
rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc.8,15). Trong ngữ cảnh Tin
Mừng của Thánh Lu-ca, sự đề cập về tấm lòng cao thượng và quảng đại của việc nghe
và giữ Lời là một bức chân dung đức tin tuyệt vời của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Chính tác giả Tin Mừng nói về ký ức của Đức Ma-ri-a, Mẹ đã suy niệm trong lòng
như thế nào về tất cả những điều Mẹ nghe thấy và nhìn thấy, sao cho Lời có thể
sinh hoa kết trái trong cuộc đời của Mẹ. Mẹ Thiên Chúa là biểu tượng đức tin trọn
hảo; như Thánh Ê-li-za-bet nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã nói với em” (Lc.1,45).
Nơi Đức Ma-ri-a, Nữ Tử Si-on, lịch sử lâu dài của của niềm tin Cựu
Ước được lấp đầy bởi câu truyện của nhiều phụ nữ đạo đức, bắt đầu với Sa-ra -
người đã ở bên cạnh các tổ phụ - mà lời
hứa của Thiên Chúa được thực hiện và sự sống mới trổ bông. Trong thời gian viên
mãn, Lời của Thiên Chúa được nói với Đức Ma-ri-a, và Mẹ đã đón nhận lời ấy vào lòng
của Mẹ, vào toàn bộ sự hiệu hữu của Mẹ, để rồi từ trong dạ Mẹ, lời ấy nhận lấy
xác phàm và được sinh ra làm ánh sáng cho nhân loại. Thánh Jus-tin tử đạo,
trong cuộc đối thoại của ngài với Trypho, đã sử dụng một sự thể thiện rất ấn tượng;
ngài nói cho chúng ta rằng, Đức Ma-ri-a, khi chấp nhận sứ điệp của thiên thần,
đã thụ thai “đức tin và niềm vui” [49]. Nơi người Mẹ Chúa Giê-su, đức tin đã chứng
tỏ sự trổ sinh hoa trái của nó; khi đời sống thiêng liêng của chính chúng ta
sinh hoa trái, chúng ta được lấp đầy bởi niềm vui, đó là dấu chỉ rõ ràng nhất
trong sự cao cả của đức tin. Trong cuộc đời của chính Đức Ma-ri-a, Mẹ đã hoàn
thành cuộc hành trình đức tin, theo những bước chân của Con của Mẹ [50]. Do vậy,
trong đức tin của Mẹ, cuộc hành trình của Cựu Ước lại được tiếp tục đi vào
trong những người đi theo Chúa Ky-tô, được Ngài biến đổi và đi vào cái nhìn của
Con Thiên Chúa nhập thể.
59. Chúng
ta có thể nói rằng, nơi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a – Đấng được chúc phúc - chúng ta tìm thấy một điều gì đó mà
tôi đã đề cập trong phần trước, cụ
thể là người tín hữu được hoàn toàn nâng lên để đi vào trong sự tuyên xưng đức tin của mình. Bởi sự
liên kết chặt chẽ của Mẹ với Chúa Giê-su, nên Mẹ liên kết một cách hoàn toàn với
những điều chúng ta tin. Là Trinh Nữ và là Mẹ, Đức Ma-ri-a cho chúng ta một dấu
chỉ rõ ràng về tư cách làm con Thiên Chúa của Chúa Ky-tô. Nguồn gốc đời đời của
Chúa Ky-tô là ở trong Chúa Cha. Ngài là Con theo một nghĩa duy nhất và tuyệt đối,
và vì Ngài được sinh ra trong thời gian mà không có sự can thiệp của một người
nam. Là Chúa Con, Chúa Giê-su mang lại cho thế giới một sự bắt đầu mới và một
ánh sáng mới, sự trọn vẹn nơi Tình yêu chung thủy của Thiên Chúa được ban tặng
cho nhân loại. Nhưng cương vị làm mẹ đích thực của Đức Ma-ri-a cũng đảm bảo cho
Con Thiên Chúa một lịch sử con người xác thực, xác thể đích thực mà trong đó
Ngài sẽ chết trên thập giá và phục sinh từ cõi chết. Đức Ma-ri-a sẽ đi theo
chân Chúa Giê-su cho đến tận cây thập giá (x. Ga.19,25), từ đó cương vị làm mẹ
của Mẹ sẽ nối dài tới từng người môn đệ của Ngài (x. Ga.19,26-27). Mẹ cũng sẽ
có mặt trong nhà tiệc ly sau khi Chúa Giê-su phục sinh và lên trời, tham dự
cùng với các Tông đồ để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần (x. Cv.1,14). Sự vận động của
tình yêu giữa Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chạy suốt chiều dài lịch
sử của chúng ta, và Chúa Ky-tô lôi kéo chúng ta đến với chính Ngài để cứu độ
chúng ta (x. Ga.12,32). Tại trung tâm đức tin của chúng ta là sự tuyên xưng
Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, được sinh ra bởi một người nữ, mang đến cho chúng
ta, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, để trở nên những người con trai con gái của
Thiên Chúa (x. Gl.4,4).
60. Chúng
ta hãy cầu xin Mẹ: Mẹ của Giáo Hội và Mẹ của đức tin chúng ta.
Lạy mẹ xin hãy nâng đỡ đức tin của chúng con!
Hãy mở tai chúng con để chúng con nghe thấy Lời của Thiên Chúa và
nhận ra tiếng mời gọi của Ngài.
Hãy làm thức tỉnh trong chúng con một niềm khao khát để đi theo những
bước chân của Ngài, để ra khỏi xứ sở của chúng con và đón nhận lời hứa của
Ngài.
Xin giúp chúng con được đụng chạm bởi tình yêu thương của Ngài, nhờ
đó chúng con có thể đụng chạm vào Ngài trong đức tin.
Xin giúp chúng con hoàn toàn trao phó bản thân mình cho Ngài và
tin vào tình thương yêu của Ngài, đặc biệt trong những lúc thử thách, dưới bóng
cây thập giá, khi đức tin của chúng con được mời gọi để lớn lên.
Xin hãy gieo trong đức tin của chúng con niềm vui của Đấng Phục
Sinh.
Xin hãy nhắc nhớ chúng con rằng, những người tin sẽ không bao giờ
phải đơn độc.
Xin dậy chúng con nhìn thấy mọi sự bằng đôi mắt của Chúa Giê-su, rằng
Ngài là ánh sáng cho bước đường của chúng con, và ánh sáng đức tin này luôn
luôn gia tăng nơi chúng con, cho đến bình minh của ngày bất diệt là chính Chúa
Ky-tô, Con của Mẹ và là Chúa của chúng con!
Được ban hành tại Rô-ma, trong Vương Cung Thánh Đường
Thánh Phê-rô, vào ngày 29/06/2013, nhân dịp Lễ Kính Thánh Phê-rô và Phao-lô
Tông Đồ, năm đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của tôi.
PHAN-XI-CÔ
(đã ký)
Phần Ghi Chú:
[1] Dialogus cum Tryphone Iudaeo 121, 2: PG
6, 758.
[2] Clemens
von Alexandrien, Protrepticus IX: PG 8, 195.
[3] Thư gửi Elisabeth Nietzsche ngày 11. Tháng 06 năm
1865, thuộc: Những tác phẩm trong ba tập, München 1954, 953f.
[4] Thiên đàng XXIV, 145-147.
[5] Acta Sanctorum, Bollandistae, Junii, I, 21.
[6] „Mặc dù Công đồng không giải
quyết riêng về vấn đề đức tin, nhưng đề cập đến đức tin ở mọi trang văn kiện,
thừa nhận đặc tính siêu nhiên và sống động của đức tin, cho rằng đức tin là
tròn đầy và chắc chắn, và dựa trên những giáo huấn của Công đồng về đức tin. Đủ
để nhớ lại các tuyên bố của Công đồng ... để nhận ra sự quan trọng thiết yếu mà
Công đồng - trong sự phù hợp với truyền thống Giáo Lý của Giáo Hội - đều quy về
đức tin, đức tin đích thực mà nó có khởi nguồn từ Chúa Ky-tô, và Quyền giáo huấn
của Giáo Hội đối với kênh của đức tin“ (Phao-lô VI, buổi Tiếp kiến chung
[8/3/1967]: Insegnamenti V
[1967], 705).
[7] Vgl. z.
B. Công Đồng Vatican I, Hiến Chế Tín lý về Đức Tin Công Giáo Dei Filius, 3.
Kap.: DS 3008-3020; Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín lý về sự Mặc Khải của
Thiên Chúa Dei Verbum, 5; Sách Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo, 153-165.
[8] Vgl. Katechese V,
1: PG 33, 505A.
[9] In Psal.
32, II, s. I, 9: PL 36, 284.
[10] Những câu chuyện của Chassidim, Zürich 1949, 793.
[11] Émile, Paris
1966, 387.
[12] Thư gửi Christophe de Beaumont (1793), Lausanne 1993, 110.
[13] Vgl.
In Ioh. Evang. 45, 9: PL 35, 1722-1723.
[14] Teil
II, IV.22
[15] De continentia 4,11: PL 40, 356.
[16] về bản chất của Thế Giới Quan Công Giáo
(1923), trong: Sự khác biệt của người Ki-tô hữu. Những
nghiên cứu thu thập 1923-1963, Mainz 19632, 24.
[17] XI, 30,
40: PL 32, 825.
[18] Vgl. ebd.,
825-826.
[19] Vgl.
Những ý kiến hỗn hợp / Culture and Value, G. H. von Wright (ed.),
Oxford 1991, 32-33; 61-64.
[20] Vgl.
Homiliae in Evangelia II, 27, 4: PL 76, 1207.
[21] Vgl.
Expositio super Cantica Canticorum XVIII, 88: CCL, Continuatio Mediaevalis 87,
67.
[22] Ebd.,
XIX, 90: CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 69.
[23] “Sự vâng phục đức tin” (Rm 16,26; x.
Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) phải là sự đáp trả của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng mạc
khải. Nhờ đức tin, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng
cách quy phục trọn vẹn lý trí và ý chí đối với Thiên Chúa, và bằng cách tự ý
ưng thuận mạc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, chúng ta cần ân sủng của
Thiên Chúa đi trước trước và trợ giúp cũng như sự trợ giúp bên trong của Chúa
Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt
lý trí và làm cho mọi người chấp nhận và tin vào chân lý. Và để người ta hiểu
biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn
đức tin bằng các
ân sủng của Ngài. (Công đồng Va-ti-ca-nô II Hiến chế
Tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, 5).
[24] Vgl.
Heinrich Schlier, Những suy tư về thuật ngữ Sự Thật theo Tin Mừng của Thánh Gio-an, trong: Sự Nhận Thức Về Tân
Ước. Luận văn chú giải và những bài diễn thuyết 2, Freiburg, Basel, Wien
1959, 272.
[25] Vgl.
Summa Theologiae III, q. 55, a. 2, ad 1.
[26] Sermo 229/L, 2:
PLS 2, 576: »Tangere autem corde, hoc est credere«.
[27] Vgl.
Nr. 73: AAS (1999), 61-62.
[28] Vgl.
Confessiones VIII,12,29: PL 32, 762.
[29] De Trinitate XV,11,20: PL 42, 1071: «Verbum quod
intus lucet».
[30] Vgl.
De civitate Dei XXII, 30, 5: PL 41, 804.
[31] Vgl. Thánh
Bộ Giáo lý Đức Tin, Đoản sắc Dominus Iesus (6.
August 2000), 15: AAS 92 (2000), 756.
[32] Demonstratio apostolicae praedicationis 24, SC 406, 117.
[33] Vgl.
Bonaventura, Breviloquium, Prol.: Opera Omnia, V, Quaracchi 1891, 201; In I
Sent., proem, q. 1, resp.: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 7; Thomas von Aquin,
Summa Theologiae I, q. 1.
[34] Vgl.
De Baptismo 20, 5: CCL I, 295.
[35] Công Đồng
VaticanII, Hiến Chế Tín Lý về sự Mạc Khải của Thiên Chúa - Dei Verbum, 8.
[36] Vgl. Công
Đồng VaticanII, Hiến Chế Tín Lý về Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium, 59.
[37] Vgl.
Epistula Barnabae 11, 5: SC 172, 162.
[38] Vgl.
De nuptiis et concupiscentia I, 4, 5: PL 44, 413: »Habent quippe intentionem
generandi regenerandos, ut qui ex eis saeculi filii nascuntur in Dei filios
renascantur.«
[39] Công Đồng
Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về sự Mạc Khải của Thiên Chúa - Dei Verbum, 8.
[40] In nativitate Domini sermo 4, 6: SC 22, 110.
[41] Vgl.
Irenäus, Adversus haereses I, 10, 2: SC 264, 160.
[42] Vgl.
ebd., II, 27, 1: SC 294, 264.
[43] Vgl.
Augustinus, De sancta virginitate 48,48: PL 40, 424-425: »Servatur et
in fide inviolata quaedam castitas virginalis, qua Ecclesia uni viro virgo
casta cooptatur «.
[44] Vgl.
An essay on the development of Christian Doctrine (1878), Uniform
Edition: Longmans, Green and Company, London, 1868-1881, 185-189.
[45] Vgl. Công
Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về sự Mạc Khải của Thiên Chúa - Dei Verbum, 10.
[46] Origenes,
Contra Celsum IV, 75: SC 136, 372.
[47] Ebd., 85: SC 136, 394.
[48] Choruses from The Rock, in: The Collected Poems and Plays 1909-1950, New York
1980, 106.
[49] Vgl.
Dialogus cum Tryphone Iudaeo 100, 5: PG 6, 710.
[50] Vgl. Công
Đồng Chung Vatican II, Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội - Lumen gentium, 58.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét