Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

TOÀN VĂN THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI -ÁNH SÁNG ĐỨC TIN của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô

TOÀN VĂN THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI -ÁNH SÁNG ĐỨC TIN của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
LTS: Quý Vị độc giả thân mến:

Thông Điệp Ánh Sáng Đức Tin đã được Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI khởi viết để đánh dấu Năm Thánh Đức Tin trên khắp Giáo Hội Toàn Cầu. Tuy nhiên, khi rời ngai tòa Thánh Phê-rô, Đức Bê-nê-đíc-tô đã chưa kịp hoàn tất Thông Điệp này. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, khi được bầu lên kế vị Đức Bê-nê-đíc-tô XVI, đã tiếp tục công trình mà Đức Bê-nê-đíc-tô đã khởi sự. Và đây được coi là Thông Điệp đầu tay của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô.

Như vậy, Thông Điệp Ánh Sáng Đức Tin là một trong những Thông Điệp hiếm hoi được soạn thảo bởi hai triều đại Giáo Hoàng. Và Thông Điệp này là một trường hợp độc nhất từ trước đến nay bởi nó được công bố trong lúc cả hai vị Giáo Hoàng – tức hai vị đã soạn thảo ra bức Thông Điệp – vẫn còn đang sống.

Bức Thông Điệp này được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ký ban hành tại Rô-ma, trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô, vào ngày 29/06/2013, nhân dịp Lễ Kính Thánh Phê-rô và Phao-lô Tông Đồ, năm đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô và được công bố vào ngày 05 tháng 07 năm 2013. Thông Điệp được chia thành bốn chương, cộng thêm phần nhập đề và phần kết luận. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô giải thích rằng, Thông Điệp này bổ túc các thông điệp về Đức Ái và Đức Cậy của Đức Bê-nê-đíc-tô XVI, và tiếp nối “công trình tốt đẹp” của Đức Giáo Hoàng Hưu Trí - người đã “gần như hoàn tất” Thông Điệp về Đức Tin này. Và Đức Thánh Cha Phan-xi-cô tự nhận mình như là người chỉ góp “thêm phần đóng góp” của ngài vào “dự thảo đầu tiên” này mà thôi (Thông Điệp Ánh Sáng Đức Tin số 7).

Khi chuyển ngữ bức Thông Điệp này sang tiếng Việt, Ban Biên Tập chúng tôi đã tham chiếu khá nhiều các bản văn bằng các ngôn ngữ khác nhau như Anh ngữ, Đức ngữ và La-tinh v.v. Đối với các bản văn Kinh Thánh được sử dụng trong Thông Điệp này, khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, chúng tôi đã tham chiếu bản Kinh Thánh tiếng Việt của Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh.

Sau đây là toàn văn bản dịch bức Thông Điệp.

THÔNG ĐIỆP
LUMEN FIDEI

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ 

GỬI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,
CÁC TU SĨ VÀ CÁC TÍN HỮU

1.Ánh sáng Đức tin: đây là cách thức mà truyền thống của Giáo Hội nói về quà tặng vĩ đại mà Chúa Giê-su mang đến. Trong Tin Mừng của Thánh Gio-an, Chúa Ky-tô đã tự nói về mình rằng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga.12,46). Thánh Phao-lô cũng sử dụng một hình ảnh tương tự:  “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán : Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2 Cr.4,6). Trong thế giới ngoại giáo đói khát ánh sáng, sự tôn thờ thần mặt trời đã phát triển- Sol Invictus – vị thần được cầu khẩn vào lúc bình minh. Ngay cả khi mặt trời được tái sinh vào mỗi buổi sáng thì người ta vẫn có thể nhận thức một cách rất rõ ràng rằng, mặt trời không có khả năng để chiếu rọi ánh sáng của nó trên toàn bộ kiếp nhân sinh của con người. Mặt trời không chiếu sáng tất cả thực tại; tia sáng của nó không thể thâm nhập vào bóng tối của sự chết, nơi mà con mắt nhân loại bị khép lại trước ánh sáng của nó. “Không ai – Thánh Giút-ti-nô Tử đạo viết – đã từng sẵn sàng chết vì niềm tin của mình vào mặt trời” [1]. Nhận thức được chân trời bao la mà đức tin mở tra trước mắt mình, các Ky-tô hữu đã cầu khẩn Chúa Giê-su như là mặt trời đích thực, “ánh sáng của Người ban tặng sự sống [2]. Trước sự khóc thương của Mát-ta đối với cái chết của người em là La-za-rô, Chúa Giê-su đã nói: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?" (Ga.11,40). Ai tin thì sẽ thấy, người ấy thấy được ánh sáng chiếu tỏa trên toàn bộ cuộc hành trình của họ, bởi vì ánh sáng ấy đến từ Chúa Ky-tô phục sinh, sao Mai không bao giờ lặn.

Phải chăng Đó Là Một Thứ Ánh sáng Hão huyền?

2.Nhưng khi nói về ánh sáng đức tin, chúng ta có thể nghe thấy hầu hết sự phản đối của nhiều người trong thời đại chúng ta. Trong xã hội hiện đại, ánh sáng đó có thể được coi là đủ cho những xã hội xưa kia, nhưng bị cảm thấy không còn sử dụng được nữa đối với xã hội tân thời, đối với một nhân loại đã trưởng thành, tự hào về sự hợp lý của mình và nóng lòng khám phá tương lai theo những cách thức mới lạ. Trong ý nghĩa này, đức tin xuất hiện như là một thứ ánh sáng huyền ảo, cản bước con người trong việc dũng cảm để đi đến với những cấp độ của  sự hiểu biết. Lúc còn trẻ, Nietzsche đã khuyến khích chị gái của mình là bà Elisabeth rằng, phải dám mạo hiểm để tiến bước “trên những con đường mới” “trong sự bấp bênh của sự bước đi một cách độc lập”. Và ông thêm vào:  “Đây là nơi mà những con đường của nhân loại bị chia rẽ: nếu bạn muốn cố đạt được sự bình an của tâm hồn và hạnh phúc thì bạn hãy tin, nhưng nếu bạn muốn trở thành môn đệ của chân lý, thì bạn hãy kiếm tìm” [3]. Đức tin sẽ không thể xung khắc với sự kiếm tìm. Kể từ thời điểm đó, Nietzsche đã phát triển sự phê phán của ông đối với Ky-tô giáo, điều làm giảm thiểu ý nghĩa đầy đủ về sự tồn tại của con người, và tước đi sự mới lạ và phiêu lưu khỏi cuộc đời. Do vậy, đức tin sẽ trở nên đồng nghĩa với một thứ ánh sáng huyễn hoặc, gây cản trở cho con đường của chúng ta như là  những con người tự do của tương lai.

3.Trong tiến trình đó, đức tin được mang đến trong sự liên kết với bóng tối ở điểm cuối. Có những người cố gắng cứu lấy đức tin bằng cách tạo ra một không gian cho nó với ánh sáng của lý trí. Không gian đó sẽ mở ra bất kể ở nơi nào mà ánh sáng của lý trí không thể chiếu rọi được, bất cứ nơi nào mà sự chắc chắn không còn có thể tồn tại được nữa. Vì thế, đức tin được hiểu hoặc như là một hành động liều lĩnh mạo hiểm được thực hiện trong sự vắng bóng của ánh sáng, được điều khiển bởi thứ tình cảm mù quáng, hoặc là một thứ ánh sáng chủ quan, mà có lẽ nó có khả năng làm ấm lòng và đem lại sự an ủi mang tính cá nhân, nhưng không phải là thứ có thể được giới thiệu, được đưa ra cho người khác như là một thứ ánh sáng khách quan cũng như được chia sẻ - tức thứ ánh sáng mà nó có thể chiếu rọi trên những nẻo đường để bước đi. Tuy nhiên, chậm nhưng mà lại chắc, nó sẽ trở nên hiển nhiên rằng, ánh sáng của lý trí không đủ để chiếu rọi tương lai; cuối cùng thì tương lai vẫn còn là bóng tối và chứa đầy sợ hãi bởi những điều chưa biết. Kết quả là, con người đã từ bỏ để không còn tìm kiếm một thứ ánh sáng vĩ đại, Chân lý của chính nó, nhưng lại bằng lòng với những thứ ánh sáng thấp kém hơn, thứ ánh sáng chỉ chiếu rọi được trong một khoảnh khắc tạm thời, nhưng không thể chiếu rọi được đường đi. Lẽ dĩ nhiên, thiếu ánh sáng, mọi thứ đều trở nên mù mờ; không thể nói về điều tốt lành từ những sự xấu xa, hoặc từ những con đường dẫn chúng ta đến với những đích điểm khác, tức những con đường dẫn chúng ta đi vào trong những vòng tròn vô định, luẩn quẩn, chẳng đến được nơi đâu.

Một thứ Ánh sáng Cần được Khám phá

4.Vì thế, có một sự cần thiết cấp bách để nhìn lại một lần nữa rằng, đức tin là một thứ ánh sáng, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin đã tắt, thì tất cả những thứ ánh sáng khác cũng đều bắt đầu trở nên mờ đi. Ánh sáng của đức tin là độc nhất, bởi chỉ nó có khả năng chiếu rọi vào mọi khía cạnh của hữu thể con người. Một thứ ánh sáng mà sức mạnh của nó không thể đến từ bản thân chúng ta nhưng từ một nguồn cội uyên nguyên: nó đến từ Thiên Chúa. Đức tin được sinh ra nhờ sự gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng Sống – Đấng đã kêu gọi chúng ta và tiết lộ tình yêu của Ngài, một tình yêu đi trước chúng ta và nhờ đó chúng ta có thể an tâm và xây dựng cuộc đời của chúng ta. Được biến đổi bằng tình yêu này, chúng ta có được cái nhìn tươi mới, có được đôi mắt mới để nhìn; chúng ta nhận ra rằng, nó chứa đựng một lời hứa vĩ đại về sự viên mãn và một cái nhìn về tương lai rộng mở trước mắt chúng ta. Đức tin – tức điều mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa như một ân ban siêu nhiên – trở thành một thứ ánh sáng cho con đường của chúng ta, và hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc hành trình. Một mặt, nó là thứ ánh sáng đến từ quá khứ, tức ánh sáng của sự tưởng niệm có tính nền tảng nơi cuộc đời của Chúa Giê-su – Đấng đã tiết lộ tình yêu trọn hảo và đáng tin cậy, một tình yêu có thể chiến thắng cả tử thần. Nhưng từ khi Chúa Ky-tô phục sinh và lôi kéo chúng ta vượt qua sự chết, thì đức tin cũng là một thứ ánh sáng đến từ tương lai và mở ra trước mắt chúng ta những chân trời rộng mở, dẫn chúng ta vượt lên trên sự ích kỷ của mình để hướng về khoảng không rộng mở của sự hiệp thông.  Chúng ta đến để nhìn thấy rằng, đức tin không cư ngụ trong bóng tối và sự u ám; nó là một thứ ánh sáng cho sự tăm tối của chúng ta. Nhà thơ Dante, trong tác phẩm Hài Kịch của các Thần Thánh, sau khi đã tuyên xưng đức tin của mình trước Thánh Phê-rô, đã miêu tả rằng, ánh sáng như là một “tia lửa, rồi trở lên một ngọn lửa bừng cháy và giống như một ngôi sao, và từ chính ngôi sao này mà tôi được chiếu sáng” [4]. Nó là thứ ánh sáng của đức tin mà tôi bây giờ muốn xem xét, để nó có thể lớn lên và thắp sáng hiện tại, trở nên một vì sao để chiếu sáng chân trời nơi chuyến hành trình của chúng ta tại một thời điểm khi mà con người đặc biệt cần đến ánh sáng.

5.Chúa Ky-tô, trước đêm vượt qua của Ngài, đã đảm bảo với Thánh Phê-rô rằng: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc.22,32). Sau đó Ngài nói với Thánh nhân rằng, hãy làm cho anh chị em của anh nên vững mạnh trong cùng một đức tin. Ý thức được nhiệm vụ đã được trao phó cho Người kế vị Thánh Phê-rô, Đức Bê-nê-đic-tô XVI đã công bố Năm Đức Tin hiện nay, là thời gian của hồng ân giúp chúng ta hiểu được niềm vui to lớn của đức tin và làm mới sự ngạc nhiên của chúng ta nơi những chân trời rộng lớn mà đức tin đã mở ra, để rồi tuyên xưng đức tin ấy trong sự hiệp nhất và toàn vẹn, trung tín với ký ức của Thiên Chúa và được duy trì, nâng đỡ bằng sự hiện diện của Ngài và bằng hành động của Chúa Thánh Thần. Sự xác tín được nảy sinh từ một niềm tin mà nó mang lại sự vĩ đại và viên mãn cho cuộc đời, một niền tin được đặt trọng tâm vào Chúa Ky-tô và vào sức mạnh của ân sủng Ngài, một niềm tin đã thôi thúc các Ky-tô hữu đầu tiên thực hiện sứ vụ của mình. Trong sách Công vụ Tử đạo, chúng ta đọc được đoạn đối thoại sau đây giữa Tổng trưởng Rô-ma Rusticus và một người Ky-tô hữu tên là Hierax: “Bố mẹ của ông ở đâu”,  quan tòa hỏi thánh nhân. Ngài trả lời: “người Cha đích thực của chúng tôi là Chúa Ky-tô, và người mẹ đích thực của chúng tôi là tin vào Ngài” [5]. Đối với các Ky-tô hữu sơ khai, đức tin - như là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng Sống được biểu lộ trong Chúa Ky-tô – quả thực là một “người mẹ”, bởi nó mang lại ánh sáng cho họ, và trong ánh sáng ấy họ được sinh ra trong cuộc sống thiêng liêng, một kinh nghiệm mới và một cái nhìn rõ ràng về sự hiện hữu mà họ đã chuẩn bị để làm chứng cho công chúng cho đến tận cùng.

6.Năm Đức Tin được khai mạc vào dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày khai mạc Công Đồng Va-ti-ca-nô II.  Điều này tự nó là một sự biểu thị rõ ràng rằng, Va-ti-ca-nô II là một Công Đồng về đức tin, [6] bởi vì nó yêu cầu chúng ta phải hoàn trả lại địa vị đứng đầu của Thiên Chúa trong Đức Ky-tô đối với trung tâm đời sống của chúng ta, cả hai như là một Giáo Hội và như những cá nhân. Giáo Hội không bao giờ giả định đức tin như là một cái gì đó không cần giải thích, nhưng nhận thức rằng, quà tặng này của Thiên Chúa cần được nuôi dưỡng và được tăng trưởng để nó có thể tiếp tục hướng dẫn cuộc hành trình của mình. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã làm cho ánh sáng đức tin có thể chiếu rọi vào sự hiện hữu của con người từ bên trong, đồng hành với các người nam và người nữ trong thời đại của chúng ta trong cuộc hành trình của họ. Điều đó đã chỉ rõ cho thấy đức tin đang làm phong phú đời sống như thế nào trong mọi chiều kích của nó.

7.Những xem xét về đức tin – trong sự liên tục với tất cả những điều mà quyền giáo huấn của Giáo Hội đã tuyên bố về nhân đức thần học này [7] – có nghĩa là để bổ sung cho điều mà Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã viết trong các bức thông điệp của ngài về Bác Ái và Hy Vọng.  Chính ngài đã gần như hoàn thành bản thảo đầu tiên của Thông Điệp về đức tin. Vì điều này, với sự biết ơn ngài một cách sâu sắc, và như là một người em của ngài trong Chúa Ky-tô, tôi đã nhận lấy công trình tốt lành của ngài và bổ sung một số đóng góp của chính tôi. Đấng Kế vị của Thánh Phê-rô, ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai, vẫn luôn luôn được kêu gọi để làm cho các anh chị em của mình thêm vững mạnh trong kho tàng vô giá của đức tin mà Thiên Chúa đã tặng ban như là một ánh sáng cho con đường của nhân loại.

Trong đức tin – tức quà tặng của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên, mà Thiên Chúa đã đổ xuống trên chúng ta - chúng ta nhận ra rằng, một tình yêu vĩ đại đã được tặng ban cho chúng ta, một lời tốt lành đã được nói cho chúng ta, và rằng khi chúng ta đón nhận lời ấy, tức Chúa Giê-su Ky-tô, Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, chúng ta được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần; Ngài thắp sáng con đường tiến về tương lai của chúng ta và làm cho chúng ta vui mừng tiến theo con đường hy vọng. Vì thế, sự hòa trộn kỳ diệu giữa đức tin, hy vọng và đức ái sẽ là động lực trong đời sống của người Ky-tô hữu, bởi nó thúc đẩy và làm tiến mau đến sự hiệp thông một cách trọn vẹn với Thiên Chúa. Nhưng con đường này sẽ như thế nào đây khi mà đức tin mở nó ra trước mắt chúng ta? Đâu là nguồn gốc của ánh sáng đầy sức mạnh này, mà với sức mạnh ấy nó có thể thắp sáng cuộc hành trình của một đời sống sinh hoa kết trái và thành công?

CHƯƠNG I

CHÚNG TA ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU ẤY

(x. 1 Ga. 4:16)

Ab-ra-ham, Người Cha của Đức Tin

8.Đức tin mở ra con đường trước chúng ta và đi cùng với những bước chân của chúng ta trong suốt thời gian của chuyến hành trình. Vì thế, nếu chúng ta muốn hiểu đức tin là gì, chúng ta cần đi theo lộ trình mà nó đã diễn ra, con đường được bước đi bởi những người tin, như là những chứng nhân đầu tiên trong Cựu Ước. Ở đây, một vị trí độc nhất thuộc về tổ phụ Ab-ra-ham, cha của những người tin. Một số điều gây phiền toái đã diễn ra trong cuộc đời của ông: Thiên Chúa nói với ông; Ngài tiết lộ chính Ngài là Thiên Chúa – Đấng đã nói và gọi tên ông. Niềm tin được nối kết với việc được nghe thấy. Ab-ra-ham đã không nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng nghe thấy tiếng Ngài. Vì thế, đức tin diễn ra theo khía cạnh cá nhân. Thiên Chúa không phải là một vị thần của một nơi cụ thể, hay một vị thần liên quan đến thời gian linh thiêng cụ thể nào, nhưng Thiên Chúa của một con người, Thiên Chúa của Ab-ra-ham, I-sa-ac và Ja-cob, có khả năng giao tiếp với con người và thiết lập giao ước với họ. Đức tin chính là sự đáp trả lại một Lời – mà Lời ấy lại là một sự xưng hô hoàn toàn mang tính cá nhân ở ngôi thứ hai – Lời ấy kêu gọi đích danh chúng ta bằng chính tên gọi của chúng ta.

9.Lời được nói với Ab-ra-ham hàm chứa cả hai điều này: lời kêu gọi và lời hứa. Thứ nhất, nó là một lời mời gọi ông rời khỏi xứ sở của mình, một lời mời để đi đến với một cuộc sống mới, bắt đầu một cuộc xuất hành mà với nó ông tiến về một tương lai không được biết trước. Sự nhìn thấy mà đức tin thường đem lại cho Ab-ra-ham sẽ luôn được gắn liền với sự cần thiết để tiến bước về phía trước: đức tin giúp “nhìn thấy” tới mức độ mà nó thực hiện một cuộc hành trình, tới mức độ mà nó chọn để đi tới những chân trời được mở ra do lời mời của Thiên Chúa. Lời này cũng chứa đựng một lời hứa: “Dòng dõi của ngươi sẽ trở nên đông đúc, ngươi sẽ là cha của một dân tộc vĩ đại” (x. St.13,16; 15,5; 22,17). Khi đáp trả lại lời đã nói với ông, niềm tin của Ab-ra-ham thường luôn là một hành động của sự hồi tưởng. Nhưng sự hồi tưởng này không được cố định trong các sự kiện của quá khứ, nhưng là sự nhớ lại một lời hứa, nó giúp người ta có thể mở ra tương lai, tỏa ra ánh sáng trên con đường đi. Vì thế, chúng ta nhìn thấy đức tin - như là một sự tưởng nhớ của tương lai, memoria futuri  – được gắn chặt với niềm hy vọng như thế nào.

10.Ab-ra-ham được kêu gọi để phó thác chính mình vào lời này. Đức tin hiểu được rằng, cái gì đó xem ra quá phù du và lướt nhanh như một lời nói, khi được nói bởi Thiên Chúa – Đấng trung tín – sẽ trở nên tuyệt đối đáng tin cậy và không thể lay chuyển, đảm bảo cho sự tiếp tục của chuyến hành trình của chúng ta trong suốt lịch sử. Đức tin chấp nhận lời này như là một hòn đá tảng mà trên đó chúng ta có thể xây dựng, một con đường thẳng mà ở trên đó chúng ta có thể đi. Trong  Kinh Thánh, từ đức tin được thể hiện bằng tiến Hebrew là ’emûnāh,  bắt nguồn từ động từ’amān mà nghĩa gốc của nó là "xác nhận". Thuật ngữ ’emûnāh có thể hiểu là sự biểu thị hóa cả về sự trung tín của Thiên Chúa lẫn niềm tin của con người.  Con người của niềm tin có được sức mạnh bằng cách đặt bản thân mình vào bàn tay của Thiên Chúa – Đấng trung tín. Việc sử dụng cả hai nghĩa của từ này – cũng được tìm thấy ở các thuật ngữ tương ứng trong tiếng Hy-lạp (pistós) và La-tinh (fidelis) – Thánh Xi-ril-lô thành Giê-ru-sa-lem đã ca ngợi phẩm giá của người Ky-tô hữu, tức người nhận thấy tiếng của chính Thiên Chúa: cả hai được gọi là “trung tín”. [8] Như thánh Au-gus-ti-nô giải thích: “Khi người nào trung tín có nghĩa là khi người đó tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài; và khi Thiên Chúa trung tín có nghĩa là khi Ngài ban tặng cho con người điều mà Ngài đã hứa” [9].

11.Một yếu tố cuối cùng trong câu truyện của Ab-ra-ham lại là điều quan trọng đối với việc hiểu về niềm tin của ông. Lời của Thiên Chúa – trong khi mang lại sự mới mẻ và ngạc nhiên – không xa lạ gì với kinh nghiệm của Ab-ra-ham. Trong tiếng nói với ông, tổ phụ đã nhận ra một tiếng gọi sâu xa mà tiếng gọi ấy luôn luôn hiện diện trong thâm tâm cũng như trong thể chất của con người ông. Thiên Chúa đã ràng buộc lời hứa của Ngài với khía cạnh ấy của đời sống con người – tức đời sống mà lúc nào cũng “đầy tràn lời hứa”, cụ thể là làm cha, làm cha của đời sống mới: “Sa-ra, vợ ngươi, sẽ sinh cho ngươi một người con, và ngươi sẽ đặt tên nó là I-sa-ac” (St.17,19). Thiên Chúa, Đấng đòi hỏi Ab-ra-ham phải hoàn toàn đặt niềm tin vào Ngài, đã mặc khải chính mình là nguồn mạch của mọi sự sống. Vì thế, đức tin được nối kết với cương vị làm cha của Thiên Chúa, cương vị ấy đã thực hiện tất cả cuộc sáng tạo; Thiên Chúa, Đấng kêu gọi Ab-ra-ham là Đấng Tạo Hóa, Đấng “khiến những gì không có hoá có” (Rm. 4,17), Đấng “đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, đã tiền định cho ta làm nghĩa tử” (Ep. 1,4-5). Đối với Ab-ra-ham, niềm tin vào Thiên Chúa đã chiếu rọi ánh sáng trên sự sâu thẳm của con người ông, nó làm cho ông có thể nhận ra nguồn mạch của sự thiện nơi nguồn gốc của tất cả mọi thứ, và có thể nhận ra rằng cuộc đời của ông không phải là sản phẩm của sự không tồn tại hoặc tình cờ, nhưng là kết quả của một tiếng gọi đích thân và một tình yêu riêng tư. Thiên Chúa nhiệm mầu, Đấng đã gọi ông không phải là một vị thần xa lạ, nhưng là Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và là điểm tựa của tất cả mọi loài mọi vật. Cuộc thử thách vĩ đại trên niềm tin của Ab-ra-ham – sát tế con trai của ông là I-sa-ac, đã cho thấy mức độ của tình yêu nguyên thủy mà nhờ đó nó có khả năng đảm bảo để sự sống vượt qua cái chết. Lời có thể nâng một người con “hầu như đã chết” trong dạ bà Sa-ra (x. Rm. 4, 19), để trở thành một người có thể đứng vững bởi lời hứa cho một tương lai vượt qua mọi đe dọa hoặc nguy hiểm (x. Heb. 11,19; Rm. 4,21).

Niềm tin của Dân Is-ra-el

12.Lịch sử của dân Is-ra-el trong Sách Xuất Hành theo sau niềm tin của Ab-ra-ham. Đức tin một lần nữa được sản sinh từ một món quà nguyên thủy: Dân Is-ra-el tín thác vào Thiên Chúa, Đấng đã hứa cứu dân Người khỏi khổ đau. Niềm tin trở nên một lời mời gọi cho một cuộc hành trình dài dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa trên núi Si-nai và thừa hưởng một vùng đất hứa. Tình yêu của Thiên Chúa được xem như là tình yêu của một người cha, tức người ẵm bế đứa con của mình trên đường đi (x. Dt. 1,31). Sự tuyên xưng niềm tin của dân Israel đã thành hình như là một bản kê khai các việc làm của Thiên Chúa trong việc cứu dân Người thoát khỏi ách nô lệ, và đóng vai trò như là sự hướng dẫn của họ (x Dt.26,5-11), một bản kê khai được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ánh sáng của Thiên Chúa chiếu rọi cho dân Is-ra-el qua sự tưởng nhớ những việc làm đầy quyền năng của Thiên Chúa, hồi tưởng và làm lễ kỷ niệm bằng sự tôn thờ, và truyền lại từ đời cha đến đời con. Ở đây chúng ta thấy ánh sáng đức tin được nối liền với các câu truyện trong đời sống thực tế như thế nào, được nối kết với sự tưởng nhớ biết ơn đối với các việc làm đầy quyền năng của Thiên Chúa và sự thực hiện từ từ các lời hứa của Người. Kiến trúc Gô-thíc đã miêu tả rõ về điều này: trong các nhà thờ lớn, ánh sáng chiếu từ trên trời xuống bằng cách đi xuyên qua các cửa sổ mô tả về lịch sử cứu độ. Ánh sáng của Thiên Chúa đến với chúng ta thông qua bảng kê khai của sự tự mặc khải của Ngài, và vì thế trở nên có thể chiếu rọi vào cuộc hành trình của chúng ta qua dòng thời gian bằng việc nhớ lại những món quà của Ngài và chỉ cho thấy những lời hứa của Ngài được thực hiện thế nào. 

13.Lịch sử của dân Is-ra-el cũng chỉ cho chúng ta thấy về cơn cám dỗ thiếu niềm tin mà dân Người đã hơn một lần từng vấp phải. Ở đây, sự đối nghịch với niềm tin được thể thiện là sự thờ ngẫu tượng. Trong khi Mô-sê đang nói chuyện với Thiên Chúa ở trên núi Si-nai, thì dân Người đã không thể chịu đựng được sự huyền nhiệm nơi sự ẩn mình của Thiên Chúa, họ không thể chịu đựng được thời gian chờ đợi để nhìn thấy mặt Ngài. Niềm tin bởi bản chất tự nhiên của nó đòi hỏi sự từ bỏ những sở hữu trước mắt do con mắt đem lại; nó là một lời mời gọi quay về nguồn ánh sáng, trong khi kính trọng màu nhiệm dung nhan, tức điều sẽ tự mặc khải nơi sự riêng tư vào một thời điểm thuận lợi và tốt lành của chính nó. Martin Buber có lần đã trích một định nghĩa về sự sùng bái ngẫu tượng của một giáo sĩ Do thái tên là Kock như sau: sự sùng bái ngẫu tượng là “khi một khuôn mặt hướng về một khuôn mặt mà nó không phải là một khuôn mặt”. [10] Thay vì tin tưởng vào Thiên Chúa, thì người ta lại ưa thích tôn thờ ngẫu tượng, điều mà người ta có thể nhìn thấy khuôn mặt, bởi vì nó được tạo ra bởi chính chúng ta. Trước một ngẫu tượng, chẳng có sự rủi ro nào mà chúng ta được kêu gọi để từ bỏ sự an nguy của chúng ta, đối với các ngẫu tượng “có mồm, nhưng không thể nói” (Tv 115:5). Chúng ta bắt đầu nhìn thấy rằng, ngẫu tượng vẫn tồn tại, và đó được coi như là một cái cớ để đặt bản thân chúng ta vào trong trung tâm của thực tại và tôn thờ những tác phẩm của chính bàn tay chúng ta. Khi con người đã đánh mất phương hướng nền tảng, mà phương hướng ấy tạo nên sự thống nhất cho cuộc sống của họ, người ấy đã tự đánh mất chính mình trong chính những thèm muốn không cùng của mình; trong việc chờ đợi thời gian của lời hứa, lịch sử cuộc đời của người đó sẽ phân rã thành vô số những khoảnh khắc rời rạc. Vì thế, sự sùng bái ngẫu tượng luôn luôn là chủ nghĩa đa thần, một sự sang nhượng vô mục đích, vu vơ từ thần nọ sang thần kia. Sùng bái ngẫu tượng không đem lại một cuộc hành trình nhưng tạo ra một trạng thái dư thừa các con đường không dẫn đến bất cứ một nơi nào, và tạo ra một mê hồn trận rộng lớn. Những người không chọn để đặt niềm tin của mình vào Thiên Chúa sẽ phải nghe thấy tiếng ầm ĩ hỗn loạn kéo dài bởi những tiếng kêu gào của vô số các thần tượng: “đừng tin vào tôi!” Đức tin, được ràng buộc như là sự cải tâm, là sự trái ngược với sự sùng bái ngẫu tượng; nó phá bỏ các thần tượng để trở về với Thiên Chúa Hằng Sống trong một cuộc gặp gỡ thân mật. Tin có nghĩa là trao phó bản thân chúng ta cho một tình yêu đầy thương xót, tức tình yêu luôn chấp nhận và tha thứ, tình yêu nâng đỡ và hướng dẫn đời sống của chúng ta, tình yêu chỉ ra sức mạnh của nó bằng  khả năng có thể làm nên một đường thẳng trên con đường cong queo của lịch sử chúng ta. Đức tin bao gồm sự thiện chí để bản thân chúng ta không ngừng được Thiên Chúa biến đổi và canh tân bằng tiếng gọi của Ngài. Ở đây có sự nghịch lý: bằng cách không ngừng hướng về Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ khám phá ra một con đường chắc chắn – con đường dẫn chúng ta thoát khỏi sự chết bởi các ngẫu tượng áp đặt lên chúng ta.

14.Trong niềm tin của Dân Is-ra-el chúng ta cũng gặp thấy hình ảnh của Mô-sê, một người trung gian. Dân Người có thể không nhìn thấy mặt Thiên Chúa; Nhưng Mô-sê là người đã nói với Thiên Chúa (YHWH) trên núi và sau đó nói lại cho người khác ý định của Thiên Chúa. Với sự hiện diện của một người trung gian ở giữa, dân Is-ra-el học được cách đi cùng nhau trong sự hiệp nhất. Hành động đức tin của cá nhân tìm thấy vị trí của nó trong một cộng đồng, trong đại từ chung “chúng tôi” của Dân Ngài, tức dân mà trong niềm tin, đã giống như một con người đơn lẻ - ‘đứa con đầu lòng của Ta”, khi Thiên Chúa mô tả tất cả Dân Is-ra-el (x Xh. 4,22). Sự trung gian ở đây không phải là một trở ngại, nhưng là một lối mở: thông qua sự gặp gỡ của chúng ta với những người khác, cái nhìn của chúng ta hướng tới một sự thật còn lớn lao hơn cả bản thân chúng ta. Rousseau đã từng kêu than rằng, ông đã không thể nhìn thấy Thiên Chúa vì chính bản thân mình: “Có biết bao nhiêu người đứng ở giữa Thiên Chúa và tôi! [11]… “Điều đó có thực sự đơn giản và tự nhiên rằng, Thiên Chúa hẳn sẽ phải đi tìm kiếm Mô-se để nói cho Jean Jacques Rousseau không?” [12] Trên cơ sở một khái niệm có tính chất cá nhân và nhỏ hẹp, một người không thể đánh giá được tầm quan trọng của sự trung gian, khả năng này để đánh giá trong cái nhìn của người khác, kiến thức được chia sẻ này là kiến thức thích hợp để yêu thương. Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, quà tặng ấy kêu gọi con người và sự dũng cảm để đặt niềm tin và trao phó; nó có thể làm cho chúng ta nhìn thấy con đường đầy ánh sáng dẫn đến sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người: lịch sử cứu độ.

Sự Tròn đầy của Đức tin Ky-tô giáo

15.“Ông Áp-ra-ham là cha của các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ." (Ga.8,56). Theo những lời này của Chúa Giê-su, lòng tin của Ab-ra-ham đã chỉ cho ông thấy; theo một nghĩa nào đó nó thấy trước được màu nhiệm của Ngài. Nên Thánh Au-gus-ti-nô đã hiểu nó khi tuyên bố rằng, các tổ phụ được cứu độ bởi lòng tin, không phải niềm tin nơi Đức Ky-tô – Đấng đã đến, nhưng nơi Đức Ky-tô đấng sẽ đến, một niềm tin thúc giục hướng về tương lai của Chúa Giê-su [13]. Đức tin của người Ky-tô hữu được đặt trọng tâm vào Chúa Ky-tô; nó là sự tuyên xưng rằng, Chúa Giê-su là Chúa, và rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết (x. Rm.10,9). Toàn bộ Cựu Ước đều đồng quy về Chúa Ky-tô; Ngài trở nên từ “Có” cuối cùng, dứt khoát cho mọi lời hứa, nền tảng cơ bản của từ thưa “Amen” của chúng ta với Thiên Chúa (x. 2Cr.1,20). Cuộc đời của Chúa Giê-su là biểu lộ trọn vẹn sự đáng tin cậy của Thiên Chúa. Nếu Dân Is-ra-el tiếp tục hồi tưởng lại các hành động yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa, tức điều đã tạo nên cốt lõi của sự tuyên xưng đức tin và được trải rộng bởi cái nhìn của nó trong đức tin, thì cuộc đời của Chúa Giê-su bây giờ trở nên như là địa điểm của sự can thiệp cuối cùng, dứt khoát của Thiên Chúa, sự biểu lộ cao nhất về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Lời Thiên Chúa nói với chúng ta trong Chúa Giê-su không phải là một lời đơn giản như mọi lời, nhưng là Lời vĩnh hằng của Ngài (x. Heb.1,1-2). Thiên Chúa có thể không ban cho chúng ta sự đảm bảo nào vĩ đại hơn được nữa về tình yêu của Ngài (x. Rm.8,31-39). Vì thế, niềm tin của Ky-tô giáo là niềm tin vào một tình yêu hoàn hảo, trong sức mạnh mang tính quyết định của nó, trong khả năng biến đổi thế giới này và mở ra lịch sử của nó. “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1Ga.4,16). Trong tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giê-su, đức tin nhận được nền tảng mà trên đó mọi thực tại và số phận của nó được đặt lên.

16.Bằng chứng rõ nét nhất về sự đáng tin cậy nơi tình yêu của Chúa Ky-tô đó là điều được tìm thấy trong cái chết của Ngài vì chúng ta. Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người thí mạng sống mình cho người mình yêu (x. Ga.15,13), chính Chúa Giê-su đã dâng hiến chính mạng sống của Ngài cho tất cả, thậm chí cho cả kẻ thù của Ngài, để biến đổi con tim họ. Điều này giải thích cho thấy tại sao các nhà truyền giáo có thể coi giờ Chúa Giê-su bị treo trên thập giá là đỉnh điểm của cái nhìn đức tin; trong giờ ấy, chiều sâu và chiều rộng của Thiên Chúa được chiếu tỏ. Nên nhờ đó mà Thánh Gio-an đã đưa ra lời chứng rất quan trọng, khi ngài cùng với Đức Ma-ri-a - Mẹ Chúa Giê-su nhìn lên Đấng đã bị đâm thâu (x Ga.19,37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật” (Ga.19,35). Trong tác phẩm Thằng ngốc của Dostoevsky, Hoàng tử Myshkin nhìn thấy một bức tranh của Hans Holbein, mà ở đó người em út miêu tả về cái chết của Chúa  Ky-tô trong mồ và nói: “nhìn vào bức tranh đó có thể làm cho một người mất đức tin của mình” [14]. Bức tranh là một bức chân dung khủng khiếp về các động tác phá hủy của sự chết trên thân thể của Chúa Ky-tô. Nhưng chính trong sự suy niệm về cái chết của Chúa Giê-su mà đức tin được lớn lên mạnh mẽ hơn và nhận được ánh sáng chiếu rọi; nên nó được biểu lộ như là niềm tin vào tình yêu kiên định của Chúa Ky-tô dành cho chúng ta, một tình yêu có thể nhận lấy sự chết để mang ơn cứu độ đến cho chúng ta. Tình yêu này – tức tình yêu đã không chùn bước trước cái chết để chỉ ra chiều sâu của nó – là điều tôi có thể tin vào; toàn bộ món quà của Chúa Ky-tô tự nó đã vượt thắng mọi nghi ngờ và làm cho tôi có thể trao phó hoàn toàn bản thân mình cho Ngài.

17.Cái chết của Chúa Ky-tô đã phơi bày sự đáng tin cậy tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa trên tất cả trong ánh sáng nơi sự phục sinh của Ngài. Là người đã sống lại, Chúa Ky-tô trở nên nhân chứng đáng tin cậy, đáng để tin (x Rev.1,5; Heb.2,17), và là một sự hỗ trợ vững chắc cho niềm tin của chúng ta. “Nếu Chúa Ky-tô không sống lại, thì niềm tin của anh em là vô ích, phù phiếm” - Thánh Phao-lô đã nói như thế (1 Cr.15,17). Nếu tình yêu của Chúa Cha không làm cho Chúa Giê-su chỗi dậy từ cõi chết, nếu không thể phục hồi sự sống cho thân xác của Ngài, thì sẽ không có một tình yêu nào hoàn toàn đáng tin cậy, cũng không có khả năng chiếu rọi vào bóng tối của sự chết. Khi Thánh Phao-lô mô tả sự sống mới của ngài trong Chúa Ky-tô, Thánh nhân nói về “niềm tin vào Con Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương tôi và trao phó chính mình Ngài cho tôi” (Gal.2,20). Rõ ràng, “niềm tin vào Con Thiên Chúa” này có nghĩa là niềm tin của Thánh Phao-lô vào Chúa Giê-su, nhưng chính bản thân của Chúa Giê-su cũng được coi như là điều đáng để tin, niềm tin ấy không chỉ dựa trên chính việc Ngài đã yêu chúng ta, thậm chí yêu đến chết, mà còn dựa trên tư cách làm Con Thiên Chúa của Ngài. Bởi vì Chúa Giê-su thực sự là Người Con, và bởi vì Ngài tuyệt đối được sinh ra từ Thiên Chúa Cha, Ngài có thể chinh phục sự chết và có thể chiếu tỏa ánh sáng một cách tròn đầy trên sự sống . Nền văn hóa của chúng ta đã đánh mất đi khả năng nhận thức về sự hiện diện hữu hình và họat động của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa sẽ chỉ được tìm thấy ở nơi thế giới bên kia, trên một mức độ khác của thực tại, đã bị loại bỏ xa khỏi các mối quan hệ hằng ngày của chúng ta. Nhưng nếu điều này thực sự xảy ra, và nếu Thiên Chúa đã không thể hành động trong thế giới này, thì tình yêu của Ngài sẽ không có sức mạnh thực sự, không có thực, không có một tình yêu nào có thể đem lại hạnh phúc như Ngài đã hứa. Sẽ chẳng có sự khác nhau gì cả giữa việc chúng ta tin hay không tin vào Ngài. Trái lại, người Ky-tô hữu tuyên xưng niềm tin của mình vào tình yêu đầy sức mạnh và hiện hữu của Thiên Chúa, tình yêu ấy thực sự tác động trong lịch sử và quyết định số phận cuối cùng của nó: một tình yêu mà nó có thể gặp thấy được, một tình yêu được biểu lộ một cách trọn vẹn thông qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Ky-tô.

18.Sự trọn vẹn mà Chúa Giê-su đã mang lại cho niềm tin còn có một khía cạch mang tính quyết định khác. Trong đức tin, Chúa Ky-tô không đơn giản là một Đấng mà chúng ta đặt niềm tin vào, như là sự biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là Đấng mà với Ngài chúng ta được liên kết với nhau để có thể tin. Đức tin không chỉ là việc nhìn vào Chúa Giê-su, nhưng còn là nhìn thấy những điều như chính Chúa Giê-su đã nhìn thấy, bằng đôi mắt của chính Ngài: nó là một sự tham dự vào cách nhìn của Ngài. Trong nhiều lĩnh vực của đời sống chúng ta, chúng ta tin tưởng vào những người biết nhiều hơn chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào kiến trúc sư khi ông ta xây dựng ngôi nhà của chúng ta, tin tưởng vào thầy thuốc khi ông ta cho chúng ta thuốc để chữa trị, tin tưởng vào luật sư khi ông bảo vệ chúng ta nơi tòa án. Chúng ta cũng cần đến những người đáng tin cậy và có khả năng hiểu biết về những công việc của Thiên  Chúa. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, chính là người có thể làm cho chúng ta nhận biết được Thiên Chúa (x. Ga.1,18). Cuộc đời của của Chúa Ky-tô, cách thức nhận biết Thiên Chúa Cha của Ngài, cũng như cuộc sống trong mối tương quan hiệp thông trọn vẹn và không ngừng với Thiên Chúa Cha đã mở ra các khung trời mới và hấp dẫn đối với sự hiện hữu của con người. Thánh Gio-an đã nêu rõ tầm quan trọng của mối quan hệ thân mật và riêng tư với Chúa Giê-su đối với đức tin của chúng ta, bằng cách sử dụng các cấu trúc khác nhau của động từ “tin”. Bên cạnh cụm từ “tin rằng” điều Chúa Giê-su đã nói với chúng ta là thực, Thánh Gio-an cũng nói về “tin” Chúa Giê-su và “tin vào” Chúa Giê-su. Chúng ta “tin” Chúa Giê-su khi chúng ta chấp nhận lời của Ngài, lời chứng của Ngài, bởi vì Ngài chân thật. Chúng ta “tin vào” Chúa Giê-su khi chúng ta đích thân đón tiếp Ngài đi vào cuộc đời của chúng ta và tiến bước về phía Ngài, bám vào Ngài trong tình yêu và bước theo những bước chân của Ngài trên mọi nẻo đường.

Để làm chúng ta có thể nhận biết, chấp nhận và theo Ngài, Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm. Theo cách này Ngài cũng đã nhìn thấy Chúa Cha với cung cách con người, trong sự thiết lập một cuộc hành trình được mở ra trong thời gian. Đức tin Ky-tô giáo là niềm tin vào sự hiện thân của Ngôi Lời và sự phục sinh thân xác của Ngài; nó là niềm tin vào một Thiên Chúa, Đấng gần gũi chúng ta đến nỗi Ngài đã đi vào trong lịch sử của nhân loại chúng ta. Không những không tách chúng ta ra khỏi thực tại, mà đức tin của chúng ta vào Con Thiên Chúa - Đấng đã trở thành người phàm nơi Chúa Giê-su Na-za-rét – làm cho chúng ta có thể hiểu thấu được ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại và nhận ra Thiên Chúa đã yêu thế giới này biết dường nào và không ngừng hướng dẫn nó tiến về chính Ngài. Điều này làm chúng ta – những người Ky-tô hữu – sống cuộc đời của chúng ta trong thế giới này với sự tận tâm và sức mạnh lớn hơn bao giờ hết.

Cứu độ nhờ Đức tin

19.Trên cơ sở của sự chia sẻ này trong cách nhìn mọi thứ của Chúa Giê-su, Thánh Phao-lô đã để lại cho chúng ta một sự miêu tả về đời sống đức tin. Trong việc chấp nhận quà tặng đức tin,  các tín hữu trở nên một sự sáng tạo mới; trở thành tạo vật mới; với tư cách là con cái của Thiên Chúa, giờ đây họ trở thành “những người con trong Con Thiên Chúa”. Cụm từ “Abba, Cha ơi”, cũng là nét đặc trưng trong kinh nghiệm của chính Chúa Ky-tô, giờ đây trở nên trung tâm điểm nơi những kinh nghiệm của người Ky-tô hữu (x. Rom.8,15). Đời sống đức tin - như là cuộc sống của đạo làm con – là sự thừa nhận một món quà nguyên thủy và triệt để trong sự nâng đỡ và duy trì đời sống của chúng ta. Chúng ta nhận thấy rõ điều này trong câu hỏi của Thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Cô-rin-tô: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1Cr.4,7). Điều này nằm ngay ở trung tâm điểm của cuộc tranh luận giữa Thánh Phao-lô và người Pha-ri-siêu: vấn đề là, ơn cứu độ có được là nhờ vào lòng tin hay nhờ vào công việc của lề luật? Thánh Phao-lô đã không chấp nhận thái độ của những người tự coi mình là công chính trước mặt Thiên Chúa dựa trên cơ sở các công việc của chính họ.

Những người như thế, thậm chí khi họ tuân theo các giới răn và làm những việc lành thánh, đã tự đặt mình vào vị trí trung tâm; họ đã không nhận ra được sự thiện đến từ Thiên Chúa. Ai hành động như thế, ai muốn tự coi mình như là nguồn mạch sự công chính của chính mình, người ấy sẽ có kinh nghiệm rằng, nguồn mạch đến từ chính họ sẽ mau chóng cạn kiệt, và phát hiện ra rằng, thậm chí họ không còn có thể giữ được lòng trung thành với lề luật. Họ trở nên khép kín, đóng mình lại, tách ra khỏi Thiên Chúa và tha nhân; đời sống của họ trở nên vô ích, phù phiếm và công việc của họ không sinh hoa kết trái, giống như một cái cây thiếu nước. Thánh Au-gus-ti-nô đã diễn tả bằng một ngôn ngữ đầy xúc tích nhưng cũng đầy ấn tượng như sau: “Đừng ngoảnh mặt đi với Đấng đã tạo dựng nên bạn, nhưng thậm chí hãy ngoảnh lại với chính bản thân bạn” [15]. Khi tôi nghĩ rằng, bằng cách ngoảnh mặt đi với Thiên Chúa, tôi sẽ tìm thấy chính mình, thì cuộc đời của tôi đã bắt đầu vỡ ra từng mảnh (Lc.15,11-24). Sự bắt đầu của ơn cứu độ là sự mở ra cho những thứ trước bản thân chúng ta, trước món quà nguyên thủy đảm bảo cho đời sống của chúng ta và giúp nó tồn tại. Chỉ bằng cách mở ra và thừa nhận món quà này thì chúng ta mới có thể được biến đổi, kinh nghiệm được cứu độ và sinh hoa trái thánh thiện. Cứu độ nhờ đức tin có nghĩa là thừa nhận nguồn cội nơi những ân ban của Thiên Chúa. Như Thánh Phao-lô đã nói: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep.2,8).

20.Cách nhìn mới của đức tin thể hiện trong việc nhìn thấy những thứ được đặt trọng tâm vào Chúa Ky-tô. Niềm tin vào Chúa Ky-tô mang lại ơn cứu độ bởi vì trong Ngài cuộc đời chúng ta được mở ra hoàn toàn cho một tình yêu đi trước chúng ta, một tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong, tác động trong chúng ta và thông qua chúng ta. Điều này được nhìn thấy trong sự chú giải của Thánh Phao-lô về đoạn văn trích từ sách Đệ Nhị Luật, một sự chú giải phù hợp với sứ điệp cốt lõi của Cựu Ước. Mô-sê đã nói với dân rằng, mệnh lệnh của Thiên Chúa không ở quá cao cũng không ở quá xa. Không cần nói: “Ai sẽ đi lên trời và mang nó xuống cho chúng ta?” hoặc “Ai sẽ băng qua biển để mang nó đến cho chúng tôi?” (Dt.30,11-14). Thánh Phao-lô đã giải thích sự gần gũi này của Lời Thiên Chúa về sự hiện diện của Chúa Ky-tô nơi người Ky-tô hữu. “Đừng tự hỏi: ai sẽ lên trời ? ngụ ý là : để đem Chúa Ki-tô xuống. Cũng đừng hỏi : Ai sẽ xuống âm phủ ? ngụ ý là : để đưa Chúa Ki-tô lên từ cõi chết” (Rm.10,6-7). Chúa Ky-tô xuống trần gian và chỗi dậy từ cõi chết; bằng sự nhập thể và phục sinh, Con Thiên Chúa đã ôm lấy toàn thể sự sống và lịch sử của nhân loại, và giờ đây cư ngụ trong con tim của chúng ta thông qua Thần Khí. Đức tin biết rằng Thiên Chúa đã lôi kéo chúng ta đến sự gần gũi với Ngài, rằng Chúa Ky-tô đã được ban tặng cho chúng ta như là một món quà vĩ đại làm biến đổi chúng ta từ bên trong, cư ngụ giữa chúng ta và vì thế ban tặng cho chúng ta ánh sáng chiếu rọi sự khởi đầu và kết thúc của sự sống.

21.Chúng ta đến để nhìn thấy sự khác biệt mà đức tin đã mang lại cho chúng ta. Ai tin thì sẽ được biến đổi bởi tình yêu mà họ đã mở lòng mình ra trong đức tin. Bằng sự mở lòng mình ra cho tặng phẩm của tình yêu tận căn này, đời sống của họ được lớn lên và trải rộng. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi” (Gal. 2,20). “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Chúa Ki-tô ngự trong tâm hồn” (Ep. 3,17). Sự tự nhận thức của người tín hữu giờ đây được mở rộng bởi vì sự hiện diện của người khác; giờ đây nó sống trong người khác, và vì thế, trong tình yêu, sự sống nhận thêm một chiều kích hoàn toàn mới. Ở đây chúng ta nhìn thấy Chúa Thánh Thần trong công trình của Ngài. Người Ky-tô hữu có thể nhìn bằng đôi mắt của Chúa Giê-su và chia sẻ trong suy nghĩ của mình, trong tâm tình làm con, bởi vì người Ky-tô hữu chia sẻ trong tình yêu của mình, đó là Thần Khí. Trong tình yêu của Chúa Giê-su, chúng ta nhận được cái nhìn của Ngài theo một phương cách chắc chắn. Không tuân theo Ngài trong tình yêu, không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, thì không thể tuyên xưng Ngài là Chúa (x. 1 Cr. 12,3).

Hình thức Đức tin của Ky-tô giáo

22.Theo cách này, đời sống của người tín hữu trở nên một đời sống Ky-tô giáo, một đời sống được sống trong Giáo Hội. Khi Thánh Phao-lô nói với các Tín hữu Rô-ma rằng, tất cả những người tin vào Chúa Ky-tô thì tạo nên một thân thể, ngài thúc giục họ không khoe khoang điều này; nhưng mỗi người phải nghĩ về chính mình “mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (Rm. 12,3). Ai tin thì sẽ đến để nhìn thấy chính họ trong ánh sáng của niềm tin mà họ đã tuyên xưng: Chúa Ky-tô là tấm gương mà trong đó họ tìm thấy hình ảnh của chính họ được biểu lộ một cách đầy đủ. Và như Chúa Ky-tô quy tụ lại với Ngài tất cả những người tin, và làm thành thân thể của Ngài, vì thế người Ky-tô hữu đến để nhìn thấy chính mình như là một chi thể của thân thể này, trong mối tương quan Ky-tô giáo với tất cả các tín hữu khác. Hình ảnh về một thân thể không có ý ám chỉ rằng người tín hữu chỉ đơn giản là một phần của một cái tổng thể vô danh, chỉ là một chi tiết trong một cỗ xe lớn; mà là thể hiện sự hiệp thông thiết yếu của Chúa Ky-tô với các tín hữu và của các tín hữu với nhau (x. Rm.12,4-5). Người Ky-tô hữu là “một” (x. Gal. 3:28), nhưng theo cách thức không làm cho họ đánh mất đi tính cách riêng tư của mình; trong sự phục vụ người khác, họ đi vào chính họ ở mức độ cao nhất. Điều này giải thích tại sao, ở ngoài thân thể này, ở bên ngoài sự hiệp nhất này của Giáo Hội trong Chúa Ky-tô, và ở bên ngoài Giáo Hội này -  theo lời của Romano Guardini – “là người mang trong lịch sử cái nhìn toàn thể của Chúa Ky-tô đối với thế giới” [16] – thì đức tin đã mất đi “trọng lượng” của nó; nó không còn tìm thấy trạng thái quân bình của nó nữa, tức khoảng cách cần để duy trì chính nó. Đức tin nhất thiết phải mang tính Giáo Hội; nó được tuyên xưng từ bên trong thân thể của Chúa Ky-tô như là một sự hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Chính từ nơi Giáo Hội mà đức tin làm cho các Ky-tô hữu riêng lẻ mở tâm lòng mình ra cho toàn thể nhân loại. Lời được nghe của Chúa Ky-tô tự chuyển hóa thông qua động thái riêng của chính Lời ấy bên trong các Ky-tô hữu, trở nên một sự đáp trả, một lời được nói, một sự tuyên xưng đức tin. Như Thánh Phao-lô viết: “có tin thật trong lòng, .. ; có xưng ra ngoài miệng, …” (Rm.10,10). Đức tin không phải là một vấn đề cá nhân, một quan điểm hoàn toàn mang đặc tính cá nhân hay một ý kiến cá nhân: nó đến từ sự nghe thấy, và nó có nghĩa là tìm thấy sự thể hiện bằng lời và được loan truyền. Bởi vì “làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm.10,14). Đức tin trở nên đang hoạt động trong người Ky-tô hữu trên cơ sở ân ban mà họ đã nhận được, tình yêu hấp dẫn con tim của chúng ta đến với Chúa Ky-tô (x. Gal5, 6), và làm cho chúng ta có thể trở nên một phần trong cuộc hành trình vĩ đại của Giáo Hội suốt dòng lịch sử cho tến tận cùng thế giới. Đối với những người được biến đổi theo cách này, một cái nhìn mới sẽ mở ra, đức tin trở nên ánh sáng cho đôi mắt của họ.

CHƯƠNG II 
NẾU CÁC NGƯƠI KHÔNG TIN
THÌ CÁC NGƯƠI SẼ KHÔNG THỂ HIỂU 

(x. Is. 7,9)


Đức tin và Chân lý

23.Nếu các ngươi không tin  tin thì các ngươi sẽ không thể hiểu được (x. Is.7,9). Câu này được rút ra từ bản dịch của cuốn Kinh Thánh bằng tiếp Híp-ry sang tiếng Hy-lạp, bản dịch này được giới thiệu ở A-lex-and-ri-a Ai-cập với tên gọi là Bản Bảy Mươi, đã dịch lại các lời của Tiên tri I-sa-i-a nói với vua A-chas. Theo cách dịch này, vấn đề hiểu biết chân lý trở nên trung tâm của đức tin. Trong bản văn bằng tiếng Híp-ry, mặc dù được đọc bằng những cách khác nhau; Vị Tiên tri đã nói với vua rằng: “Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững.”. Ở đây có một sự chơi chữ, dựa trên hai hình thức của động từ ’amān: "các ngươi sẽ tin" (ta’amînû)  "các ngươi sẽ đứng vững" (tē’āmēnû). Do sợ hãi trước sức mạnh của kẻ thù, nhà vua đã tìm kiếm sự an toàn của mình bằng cách liên minh với đại đế As-sy-ri-a. Thay vào đó, vị tiên tri đã nói với nhà vua rằng, hãy hoàn toàn tin tưởng vào đá tảng vững chắc và kiên cố đó là Thiên Chúa của Is-ra-el. Bởi vì Thiên Chúa đáng tin cậy, rất hợp lý để đặt niềm tin vào Ngài, vững tin vào Lời Ngài. Ngài cũng là một Thiên Chúa mà sau này I-sa-i-a sẽ gọi hai lần trong một đoạn thơ, Thiên Chúa là Đấng Amen, “Thiên Chúa Chân Thật” (x. Is.65,16), nền tảng vững bền nơi độ tin cậy của giao ước. Người ta có thể nghĩ rằng, phiên bản bằng tiếng Hy-lạp của bộ Kinh Thánh, với cách dịch của mình trong cụm từ “ở lại” với cụm từ “hiểu biết” đã đưa vào trong bản văn một sự thay đổi được lượng giá một cách sâu sắc, mà trong cách dịch này nó đã vượt qua quan điểm của Kinh Thánh về sự tín thác vào chính Thiên Chúa để đưa đến một cách hiểu theo văn hóa Hy-lạp. Nhưng bản dịch này, tức bản dịch phản ánh một cách chắc chắn cuộc đối thoại với nền văn hóa Hy-lạp cổ đại, không xa lạ gì với tinh thần cơ bản của bản văn theo tiếng Híp-ry. Một nền tảng vững chắc mà I-sa-i-a đã hứa với nhà vua quả thực đã được dựa trên một sự hiểu biết về hoạt động của Thiên Chúa và sự hiệp thông mà Ngài đã ban cho sự sống con người cũng như cho lịch sử của Dân Người. Vị Tiên tri đã thách thức nhà vua và chúng ta, để hiểu biết về đường lối của Thiên Chúa, nhận ra sự trung tín của Thiên Chúa, kế hoạch khôn ngoan chi phối các thời đại. Thánh Au-gus-ti-nô đã đưa đến một tổng hợp của sự  “hiểu biết” và việc “được đứng vững“, và điều này được phát biểu trong tác phẩm Lời Tự Thú của ngài, khi ngài nói về chân lý mà một người có thể tin tưởng vào đó để có thể hiểu: “Trong Ngài là sự vững chắc và là sức mạnh của con (…). Chính Ngài là Chân lý“ [17]. Từ ngữ cảnh đó chúng ta biết được rằng, Thánh Au-gus-ti-nô đã muốn chỉ ra cho thấy, Chân Lý đáng tin cậy này của Thiên Chúa - như Kinh thánh đã làm rõ - là sự hiện diện đầy tín trung của chính Ngài trong suốt chiều dài lịch sử, có khả năng gắn kết mọi thời gian và các thời đại lại với nhau, qua đó, Ngài tập hợp mọi ngày đời của con người trong sự phân rã của họ [18].

24.Được đọc dưới ánh sáng này, bản văn của tiên tri dẫn đến một kết luận: chúng ta cần kiến thức, chúng ta cần sự thật, bởi nếu không có những thứ này, chúng ta không thể đứng vững, chúng ta không thể tiến về phía trước. Đức tin không có sự thật thì không đem lại sự cứu rỗi, nó không cung cấp một nền tảng chắc chắn. Nó chỉ còn lại như là một câu chuyện đẹp, bộc lộ sự mong ước sâu kín của chúng ta về hạnh phúc, một điều gì đó có thể làm thỏa mãn chúng ta tới một mức độ mà chúng ta sẵn sàng lừa dối cả bản thân mình. Hoặc là nó bị làm giảm thiểu vào một thứ tình cảm đẹp đẽ nhưng kiêu căng, một thứ tình cảm đem lại sự an ủi và ấm áp, nhưng lại bị nô lệ hóa cho sự hay thay đổi của tâm tính chúng ta cũng như tính khả biến của thời gian, và không có khả năng để đưa ra cho cuộc sống không có điểm dừng này một con đường cố định. Khi đức tin là như thế, thì vua A-chas đã có lý để không đặt cuộc sống của ông cũng như cho sự vững chắc của triều đại ông trên một cảm xúc. Nhưng qua mối liên kết nội tại của nó với sự thật, đức tin trở nên có năng lực để mời chào một thứ ánh sáng mới, ánh sáng ấy vượt lên trên cả những tính toán của nhà vua, vì nó nhìn xa hơn cũng như vì nó hiểu được hành động của Thiên Chúa – Đấng hằng trung tín với các lời hứa và giao ước của Ngài.

25.Ngày nay, hơn bao giờ hết chúng ta cần được nhắc nhớ về sự liên kết giữa đức tin và sự thật, dựa vào kinh nghiệm về sự khủng hoảng sự thật trong thời đại của chúng ta. Trong nền văn hóa đương đại, người ta thường có khuynh hướng để chỉ chấp nhận sự thật như là sự thật của công nghệ: sự thật là cái mà người ta có thể xây dựng và đo đạc chính con người với khoa học của họ, sự thật là cái làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng hơn, thoải mái hơn. Ngày nay điều này được xem như là một chân lý duy nhất chắc chắn, một chân lý duy nhất có thể được chia sẻ, một chân lý duy nhất có thể làm cơ sở cho các cuộc thảo luận hoặc cho những công việc chung. Mặt khác, lại có những chân lý của cá nhân, mà chứa đựng trong đó điều có thể trở thành xác thực đối với những cái mà mỗi người cảm thấy từ bên trong; những cái đó chỉ có giá trị đối với cá nhân và không thể được giới thiệu cho người khác với quyền hạn để phục vụ công ích. Chân lý vĩ đại, tức chân lý giải thích toàn bộ cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đồng, được chiêm ngưỡng với mối nghi kỵ. Người ta tự hỏi, phải chăng chẳng có chân lý gì hết, tức chân lý mà toàn bộ các hệ thống độc tài của các thế kỷ trước đã tự cho mình có – một chân lý phải chăng là một sự áp đặt hệ tư tưởng riêng của nó để đè bẹp lịch sử cụ thể của mỗi cá nhân? Như vậy, rốt cuộc chỉ duy có chủ nghĩa tương đối là điều còn lại, trong đó vấn nạn được đặt ra đối với chân lý phổ quát, tức một chân lý nằm trong nền tảng cũng như trong vấn nạn về Thiên Chúa, không được quan tâm nữa. Từ quan điểm này dẫn đến một lô-gich rằng, người ta muốn giải quyết mối liên kết của tôn giáo với chân lý, bởi sự liên kết này đứng ngay trên gốc rễ của sự cuồng tín, mà sự cuống tín này muốn trấn áp tất cả những ai không chia sẻ những niềm tin cá nhân. Trong mối liện hệ này với một quá khứ lớn lao, chúng ta có thể nói trong thế giới hiện tại của chúng ta. Vấn nạn về chân lý thực ra là một vấn nạn của sự hồi tưởng, một sự tưởng nhớ thẳm sâu, bởi vì nó bị lôi cuốn bởi một cái gì đó mà nó đã đi trước chúng ta, và bằng phương cách này nó có thể liên kết chúng ta lại với nhau hầu có thể vượt qua những cái tôi nhỏ nhoi và hạn chế của chúng ta. Nhưng trước hết, nó là một vấn nạn về nguồn cội, mà trong ánh sáng của nó người ta có thể nhìn thấy đích điểm cũng như nhìn thấy ý nghĩa của con đường chung.

Sự Hiểu biết, Chân lý và Tình yêu

26.Dựa vào lập luận trên, đức tin Ky-tô giáo có thể đưa ra một sự hữu ích cho điều thiện chung về con đường đúng đắn để hiểu biết chân lý không? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta cần suy tư về loại kiến thức liên quan đến đức tin. Ở đây một câu nói của Thánh Phao-lô có thể giúp chúng ta hiểu: “Có tin thật trong lòng” (Rm.10,10). Trong Kinh Thánh, tâm lòng là nòng cốt của con người, ở đó tất cả các chiều kích khác nhau của con người giao hội lại với nhau: xác thể và tinh thần, cái bên trong và sự mở ra với thế giới và với người khác, trí năng, ý chí và xúc cảm. Nếu trái tim có thể giữ tất cả những chiều kích lại với nhau, thì bởi vì nó là nơi chúng ta bắt đầu mở ra cho chân lý và tình yêu, nơi đó chúng ta để chúng đụng chạm đến chúng ta và biến đổi chúng ta một cách sâu xa. Đức tin biến đổi toàn bộ con người, đúng thế, tới một mức độ mà người đó trở nên mở ra cho tình yêu. Thông qua sự hòa trộn này giữa đức tin và tình yêu, chúng ta đến để nhìn ra loại kiến thức mà đức tin đưa đến, nhìn thấy sức mạnh thuyết phục của nó và khả năng chiếu sáng của nó trên những bước chân của chúng ta. Đức tin biết được bởi nó được gắn chặt với tình yêu, bởi tình yêu tự nó mang đến sự khai sáng. Sự hiểu biết của đức tin được sinh ra khi chúng ta đón nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa – mà tình yêu ấy lại biến đổi chúng ta từ bên trong và làm cho chúng ta có thể nhìn thấy thực tại bằng đôi mắt mới.

27.Sự giải thích về mối liên kết giữa đức tin và sự chắc chắn do triết gia Ludwig Wittgenstein nêu ra được nhiều người biết tới. Đối với Wittgenstein, đức tin có thể được so sánh tương tự với kinh nghiệm về sự đắm đuối của tình yêu trong ý nghĩa của một cái gì đó chủ quan, không thể được đề xuất như là một chân lý có giá trị đối với tất cả mọi người [19]. Qủa thực, hầu hết mọi người ngày nay đều không coi tình yêu có một mối liên quan tới bất cứ cách nào đó của chân lý. Tình yêu được coi như là một trải nghiệm được kết hợp với thế giới xúc cảm chóng qua, không còn có chân lý ở đó nữa.

Nhưng đây có phải là một sự miêu tả đầy đủ về tình yêu không? Tình yêu không thể bị giảm thiếu tới một loại tình cảm phù du, chóng phai nhạt. Thực ra, nó gắn với lòng thương xót của chúng ta, nhưng là để mở nó ra cho người mình yêu và do đó chiếu sáng con đường hầu giúp thoát ra khỏi sự tự cho mình là trung tâm, và giúp hướng về người khác, để xây dựng một mối quan hệ lâu bền; tình yêu nhằm hiệp nhất với người mình yêu. Ở đây chúng ta bắt đầu nhìn thấy tình yêu đòi hỏi phải có sự thật như thế nào. Chỉ khi mức độ của tình yêu được dựa trên sự thật thì nó mới có thể bền lâu và vượt lên trên thời gian, có thể vượt qua những giây phút đang trôi qua và đủ chắc chắn để duy trì một cuộc hành trình được sẻ chia. Nếu tình yêu không được gắn kết với sự thật, thì đương nhiên sẽ bị lệ thuộc vào trong sự xúc cảm và không thể tồn tại trong sự thử thách của thời gian. Một mặt, tình yêu đích thực hợp nhất lại với nhau tất cả các thành tố của một con người, và trở nên một ánh sáng mới chỉ đường cho một cuộc sống viên mãn và vĩ đại. Không có sự thật, tình yêu không thể tạo ra một mối liên kết bền vững; nó không thể giải thoát chúng ta khỏi cái bản ngã bị cô lập của mình, hay cứu thoát nó khỏi những khoảnh khắc phù du, mau qua, hầu có thể tạo ra sự sống và sinh hoa trái.

Nếu tình yêu cần sự thật, thì sự thật cũng cần tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách rời nhau. Không có tình yêu, sự thật trở nên lạnh lẽo, bâng quơ và làm ngột ngạt cuộc sống hằng ngày của con người. Sự thật mà chúng ta kiếm tìm, sự thật đó đem lại ý nghĩa cho cuộc hành trình trong suốt cuộc đời của chúng ta, khai sáng chúng ta bất cứ khi nào chúng ta được đụng chạm bởi tình yêu. Người nào yêu sẽ nhận ra rằng tình yêu là một trải nghiệm của sự thật, rằng nó mở mắt chúng ta để nhìn thấy thực tại trên con đường mới, trong sự kết hiệp với người mình yêu. Theo nghĩa này, Thánh Grê-go-ri-ô Cả đã có thể viết rằng: “amor ipse notitia est” - tình yêu tự nó là một kiến thức có sự lô-gich của chính nó [20]. Đó là một cách thức mang tính quan hệ để nhìn ngắm thế giới, đó là một nhận thức mà cả đôi bên cùng chia sẻ, một cái nhìn từ quan điểm của người khác và một quan điểm chung của tất cả mọi sự. Thánh William Saint-Thierry, thời Trung Cổ, đã tiếp bước truyền thống này khi ngài bình luận về đoạn thơ trong sách Diễm Ca mà ở đó người yêu nói với người mình yêu rằng: “Đôi mắt của em là đôi mắt bồ câu” (Dc.1,15) [21]. Đôi mắt mà Thánh William nói, là lý trí và tình yêu được lấp đầy trong niềm tin, sau đó trở nên một sự tiến triển trong sự trầm tư mặc tưởng về Thiên Chúa, khi sự hiểu biết của chúng ta trở thành “một sự hiểu biết của tình yêu được khai sáng” [22].

28.Sự khám phá tình yêu này như là một nguồn hiểu biết, một phần nơi kinh nghiệm ban sơ của mọi người nam và người nữ, tìm thấy được sự thể hiện có căn cứ đích xác trong sự hiểu biết mang tính Thánh Kinh của đức tin. Trong việc nếm nghiệm tình yêu mà nhờ đó Thiên Chúa đã chọn họ và làm cho họ trở nên một dân tộc, dân Is-ra-el đã đến để hiểu ra sự thống nhất toàn diện của kế hoạch thánh thiêng. Đức tin – sự hiểu biết, do được sinh ra từ tình yêu có tính giao ước của Thiên Chúa, là tri thức thắp sáng con đường trong lịch sử. Điều đó cho thấy tại sao, trong Kinh Thánh, sự thật và sự trung tín luôn đi cùng nhau: Thiên Chúa quả thực là Đấng trung tín – Đấng giữ lời hứa và làm cho chúng trở nên có thể trong thời gian, một sự hiểu biết sâu xa hơn về kế hoạch của Ngài. Qua kinh nghiệm của các Tiên Tri, trong nỗi đau của sự lưu đày và trong hy vọng dứt khoát trở về thành thánh, dân Is-ra-el đã đến để nhìn thấy rằng, “chân lý” thánh thiêng này đã mở rộng vượt xa phạm vi bị bó hẹp nơi lịch sử của chính họ, để ôm toàn bộ lịch sử của thế giới, với sự bắt đầu nơi công cuộc sáng tạo. Đức tin – đó là sự hiểu biết mà nó chiếu tỏa ánh sáng không chỉ trên số phận của một dân tộc cụ thể, mà còn trên toàn bộ lịch sử của thế giới đã được tạo dựng, từ khởi nguyên ban đầu cho đến đích điểm tuyệt đối của nó.

Đức tin được ví như là sự Lắng nghe và Nhìn ngắm

29.Đúng vậy, bởi đức tin – tức sự hiểu biết được nối kết trong giao ước với một Thiên Chúa trung tín – Đấng đi vào mối quan hệ yêu đương với con người và nói Lời của Ngài cho con người, Kinh Thánh đã trình bày đức tin như là một sự nghe thấy; nó được kết hợp với nghĩa của việc nghe thấy. Thánh Phao-lô thường sử dụng một công thức mà công thức này đã trở nên kinh điển: fides ex auditu,  “có đức tin là nhờ nghe rao giảng” (Rm.10,17). Sự hiểu biết được nối liền với một lời luôn là sự hiểu biết cá nhân; nó nhận ra giọng nói của người nói, mở ra cho người đó sự tự do và theo người ấy trong sự vâng phục. Do vậy, Thánh Phao-lô đã có thể nói về “sự vâng phục của đức tin” (x Rm. 1,5; 16,26) [23]. Ngoài ra, đức tin cũng còn là một sự hiểu biết được gắn với dòng thời gian, bởi Lời cần có thời gian để được nói ra:  Nó là một sự hiểu biết mà người ta có thể đạt được sự hiểu biết ấy chỉ bằng một con đường duy nhất, tức là sự bước theo. Do đó, kinh nghiệm của sự nghe thấy có thể giúp thể hiện rõ hơn sự gắn kết giữa hiểu biết và tình yêu.

Sự hiểu biết của sự thật liên quan đến điều mà đôi khi sự lắng nghe lại bị làm cản trở việc nhìn thấy, mà sự nhìn thấy lại là một nét riêng của nền văn hóa Hy-lạp. Nếu ánh sáng cho phép sự suy tư toàn bộ điều mà nhân loại luôn khao khát, thì nó cũng sẽ dường như chẳng để lại không gian nào cho sự tự do, bởi nó đến từ trời cao và đi thẳng trực tiếp vào mắt, mà không đòi hỏi sự phản ứng của đôi mắt. Ngoài ra, nó có vẻ như muốn mời gọi một sự định giá dựa trên số liệu thống kê, bị chia tách từ thời gian cụ thể, mà trong đó con người cảm nếm được niềm vui và sự đau khổ. Từ lập trường này, sự hiểu biết kiến thức Kinh Thánh sẽ đối ngược với sự hiểu biết theo văn hóa Hy-lạp, tức điều đã nối kết sự hiểu biết với sự nhìn ngắm bằng sự cố gắng để đạt được một sự hiểu biết toàn diện về thực tại.

Tuy nhiên, sự phản đề được viện dẫn này không tương ứng với luận cứ của Kinh Thánh. Cựu Ước kết hợp cả hai loại hiểu biết, bởi vì việc nghe thấy Lời của Thiên Chúa đi cùng với sự khao khát muốn nhìn thấy dung nhan Ngài. Do vậy, cơ sở được đặt ra cho một cuộc đối thoại với nền văn hóa Hy-lạp, đã là một cuộc đối thoại nằm ngay trong trung tâm của Thánh Kinh. Việc nghe thấy nhấn mạnh đến chiều kích cá nhân và vâng phục, và thực tế cho thấy rằng, chân lý được tiết lộ trong thời gian. Việc nhìn thấy cung cấp một cái nhìn toàn diện trên cuộc hành trình, và cho phép đặt vào trong kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa; không có sự nhìn này, chúng ta sẽ bị để lại chỉ với những bộ phận rời rạc của một cái tổng thể chưa được biết tới.

30.Sự gắn kết giữa việc nhìn thấy và việc nghe thấy trong đức tin và sự hiểu biết là bằng chứng rõ ràng nhất trong Tin Mừng của Thánh Gio-an. Đối với Tin Mừng Thứ Tư, tin gồm cả nghe thấy và nhìn thấy. Sự nghe thấy của đức tin nổi lên như là một dạng hiểu biết phù hợp với tình yêu: nó là một sự nghe thấy mang tính riêng tư, mà qua đó người ta nhận ra tiếng của vị Mục Tử Nhân Lành (x. Ga.10,3-5); đó là một sự lắng nghe trước lời mời gọi để trở thành môn đệ, như trường hợp của các tông đồ đầu tiên: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giê-su” (Ga.1,37). Nhưng đức tin cũng được gắn kết với sự nhìn thấy. Đôi khi việc nhìn thấy những dấu lạ mà Chúa Giê-su đã làm dẫn đến đức tin, như trong trường hợp của những người Do Thái, tức những người mà sau khi họ chứng kiến sự sống lại của La-za-rô, “chứng kiến việc Chúa Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người” (Ga. 11,45). Đôi khi, đức tin tự nó dẫn đến một sự nhìn thấy sâu xa hơn: “nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa” (Ga. 11,40). Cuối cùng, đức tin và sự nhìn thấy giao hội với nhau: “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; Và ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi” (Ga. 12,44-45). Sự kết hợp giữa việc nghe thấy và nhìn thấy sẽ trở nên một dạng thức tuân theo Chúa Ky-tô, và đức tin dường như là một quá trình nhìn ngắm, mà trong đó con mắt của chúng ta dần dần làm quen với việc nhìn vào các vấn đề có chiều sâu. Vì thế, buổi sáng Phục sinh được chuyển từ Thánh Gio-an – tức người đã đứng trong bóng tối của buổi sáng sớm trước ngôi mồ trống, “đã thấy và đã tin” (Ga. 20,8) sang cho Ma-ri-a Ma-đa-lê-la – tức người sau khi nhìn thấy Chúa Giê-su (x. Ga.20,14) và muốn bám vào Ngài, được yêu cầu hãy nhìn ngắm Ngài khi Ngài lên cùng Chúa Cha, và cuối cùng tới sự tuyên xưng một cách đầy đủ của chị trước các tông đồng: "Tôi đã thấy Chúa"(Ga. 20,18).

Với cách nào mà một người có thể đạt được sự tổng hợp này giữa việc nghe thấy và việc nhìn thấy? Nó trở nên có thể thông qua Con Người của chính Chúa Ky-tô, Đấng có thể được nhìn thấy và nghe thấy. Ngài là Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, vinh quang của Ngài chúng tôi đã nhìn thấy (x. Ga. 1,14). Ánh sáng đức tin là ánh sáng của dung nhan mà trong đó chúng ta nhìn thấy Chúa Cha. Trong Tin Mừng Thứ Tư, chân lý mà đức tin đạt được là sự biểu lộ Chúa Cha trong Chúa Con, trong xác thịt của Ngài và trong các hoạt động trần thế của Ngài, một chân lý mà nó có thể được định nghĩa như là “cuộc đời được đổ tràn ánh sáng” của Chúa Giê-su [24]. Điều này có nghĩa rằng, đức tin và sự hiểu biết không hướng cái nhìn của chúng ta đến một chân lý nội tại thuần túy bên trong. Chân lý mà đức tin khai mở cho chúng ta là một chân lý được đặt trọng tâm vào một cuộc gặp gỡ với Chúa Ky-tô, vào sự chiêm ngắm cuộc đời của Ngài và vào sự ý thức về sự hiện diện của Ngài. Thánh Tô-ma A-qui-nô đã nói về Đức Tin  của các Tông Đồ như sau: oculata fides – một đức tin nhìn thấy! – trong sự hiện diện của thân thể Thiên Chúa Phục Sinh [25]. Bằng con mắt của chính mình, các tông đồ đã nhìn thấy Chúa Giê-su Phục Sinh và các ngài đã tin; nói một cách ngắn gọn, các ngài có thể nhìn vào các chiều sâu của cái mà các ngài đang thấy và tuyên xưng niềm tin của mình vào Con Thiên Chúa, Đấng ngồi bên hữu Chúa Cha.

31.Chỉ bằng cách này, tức bằng việc mặc lấy xác phàm, thông qua sự chia sẻ nhân tính của chúng ta, mà sự hiểu biết riêng của tình yêu mới có thể đạt tới được sự tròn đầy. Bởi vì ánh sáng của tình yêu được sản sinh khi con tim của chúng ta được đụng chạm, và khi chúng ta mở chính mình ra cho sự hiện diện bên trong của Đấng mình yêu – tức Đấng làm cho chúng ta có thể nhận ra sự huyền nhiệm của Ngài. Vì thế, chúng ta cần hiểu tại sao, cùng với việc nghe thấy và nhìn thấy, Thánh Gio-an có thể nói về đức tin như là một sự đụng chạm, khi ngài nói trong lá Thư Thứ Nhất của ngài rằng: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống“ (1Gn.1,1). Bằng việc mặc lấy xác thịt và đến ở giữa chúng ta, Chúa Giê-su đã chạm vào chúng ta, và thông qua các bí tích thậm chí ngày hôm nay Ngài vẫn tiếp tục chạm vào chúng ta; biến đổi lòng trí chúng ta, Ngài không ngừng làm cho chúng ta có thể thừa nhận và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Trong đức tin, chúng ta có thể chạm vào Ngài và nhận được sức mạnh từ ân sủng của Ngài. Thánh Au-gus-ti-nô, khi nhận xét về trường hợp của người phụ nữ bị mắc bệnh xuất huyết đã chạm vào Chúa Giê-su và được chữa khỏi (x. Lc.8,45-46), đã nói: “đụng chạm vào với con tim, đó là đức tin” [26]. Đám đông áp sát vào Chúa Giê-su, nhưng họ không chạm được tới Ngài bằng sự đụng chạm riêng tư của đức tin, điều nhận thức về màu nhiệm của Ngài rằng, Ngài là Chúa Con – Đấng mặc khải Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su, thì khi đó chúng ta mới có thể nhận được đôi mắt xứng hợp để nhìn thấy Ngài.

Đối thoại giữa Đức tin và Lý trí

32.Vì Đức tin Ky-tô giáo tuyên xưng về một chân lý nơi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa và mở con người ra cho sức mạnh của tình yêu ấy, nó đạt tới điều cốt lõi thực sự từ kinh nghiệm của mỗi người, mà mỗi người thấy được ánh sáng nhờ tình yêu, được kêu gọi để yêu và để ở lại trong ánh sáng. Khao khát chiếu sáng vào tất cả thực tại với tình yêu của Thiên Chúa đã hiển nhiên được làm rõ ràng nơi con người Chúa Giê-su, và tìm kiếm để yêu thương người khác bằng cùng một tình yêu ấy, những người Ky-tô hữu đầu tiên đã tìm thấy trong thế giới Hy-lạp, với sự khao khát của nó đối với chân lý, một đối tác lý tưởng trong đối thoại. Sự gặp nhau giữa lời dậy của Phúc Âm với nền văn hóa triết học của thế giới cổ đại đã chứng tỏ một bước quyết định trong việc loan báo Tin Mừng cho tất cả các dân tộc, và thúc đẩy sự tương tác có lợi giữa đức tin và lý trí - điều đã diễn ra ở các thế kỷ sau này và đến tận thời đại của chúng ta. Chân phúc Gio-an Phao-lô II, trong Thông Điệp Đức tin và Lý trí (Fides et Ratio), đã chỉ ra cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào [27]. Một khi chúng ta khám phá ra ánh sáng đầy tràn của tình yêu nơi Chúa Ky-tô, chúng ta sẽ nhận ra, có một tia sáng yếu ớt của thứ ánh sáng ấy luôn luôn hiện diện trong toàn bộ tình yêu của chúng ta, và nhận ra đích đến cuối cùng của nó. Thực tế cho thấy rằng, tình yêu của chúng ta tự mang đến cho mình một ánh sáng, đồng thời giúp chúng ta nhận ra con đường của Tình Yêu, tức con đường dẫn chúng ta đi vào trong sự viên mãn của sự hiến thân hoàn toàn mà Con Thiên Chúa đã thực hiện vì chúng ta. Trong sự chuyển động vòng tròn này, ánh sáng của đức tin sẽ chiếu rọi tất cả các mối quan hệ nhân loại của chúng ta, mà các mối quan hệ này có thể được sống trong sự hiệp thông với tình yêu tinh tế của Chúa Ky-tô.

33.Trong cuộc đời Thánh Au-gus-ti-nô chúng ta tìm thấy được một ví dụ quan trọng về quá trình mà nhờ đó lý trí, với sự khao khát của nó về chân lý và sự rõ ràng, được hòa nhập vào chân trời của đức tin, và như vậy có được sự hiểu biết mới. Thánh Au-gus-ti-nô đã chấp nhận ánh sáng triết học của Hy-lạp, với sự nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc nhìn thấy. Sự chạm trán của ngài với thuyết tân Pla-ton đã đưa ngài đến với thế giới quan của ánh sáng, mà ánh sáng ấy đi từ trên cao xuống để chiếu sáng mọi thực tại, là một biểu tượng về Thiên Chúa. Vì thế Thánh Au-gus-ti-nô đã đi đến việc nhận thức một cách rõ ràng về sự siêu việt của Thiên Chúa, và đã khám phá ra rằng tất cả mọi thứ đều có một sự rõ ràng nhất định, rằng chúng có thể phản ánh sự thánh thiện của Thiên Chúa. Sự nhận ra này đã giải phóng Thánh nhân khỏi thuyết Thiện Ác của phái nhị nguyên, tức giáo thuyết đã làm cho ngài nghĩ rằng, điều thiện và điều ác ở trong tình trạng xung khắc không ngừng, lẫn lộn và đan quyện vào nhau. Sự nhận ra Thiên Chúa là ánh sáng đã cung cấp cho Thánh Au-gus-ti-nô một hướng đi mới trong cuộc đời và làm cho ngài có thể thừa nhận sự phạm tội của ngài để rồi trở về với sự thánh thiện.

Tất cả đều giống nhau, giây phút có tính quyết định trong chuyến hành trình đức tin của Thánh Au-gus-ti-nô, như ngài nói cho chúng ta biết trong tác phẩm Tự Thú, không phải là trong sự nhìn thấy của một Thiên Chúa ở trên và bên kia thế giới này, nhưng là trong một kinh nghiệm nghe thấy. Trong vườn, ngài nghe thấy một tiếng nói với ngài: “Hãy cầm lấy mà đọc”. Sau đó ngài đã cầm lấy cuốn sách gồm các thư của Thánh Phao-lô và bắt đầu đọc chương thứ mười ba của Thư gửi tín hữu Rô-ma [28]. Theo cách này, Thiên Chúa đầy nhân vị của Kinh Thánh là Đấng có khả năng để nói chuyện với con người và có khả năng hạ mình xuống để sống với họ, cũng vậy, đã đồng hành với nhân loại trên quãng đường trải dài trong suốt dòng lịch sử của họ, mà trong đó ngài tự tỏ ra trong thời gian của sự lắng nghe và đáp trả.

Nhưng sự gặp gỡ này với Lời Thiên Chúa đã không làm cho Thánh Au-gus-ti-nô khước từ ánh sáng cũng như sự nhìn ngắm. Ngài đã hợp nhất hai khía cạnh của việc nghe thấy và nhìn thấy, không ngừng được hướng dẫn bởi sự biểu lộ của tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su. Vì thế Thánh Au-gus-ti-nô đã phát triển một thứ triết học ánh sáng có khả năng chứa đựng cả hai sự tương nhượng phù hợp với Lời và sự tự do được bắt nguồn từ việc ngắm nhìn vào ánh sáng. Đúng ngay lúc Lời kêu gọi một sự đáp trả tự do, thì ánh sáng tìm thấy một sự đáp trả bằng hình ảnh phản ánh chính nó. Vì thế, Thánh Au-gus-ti-nô có thể kết hợp giữa việc nghe thấy và nhìn thấy, và nói về “lời chiếu sáng bên trong” [29]. Ánh sáng trở nên, có thể nói như vậy, ánh sáng của một lời, bởi vì nó là ánh sáng của một dung nhan con người, một ánh sáng, thậm chí khi nó khai sáng chúng ta, gọi chúng ta và tìm kiếm để được phản chiếu trên khuôn mặt của chúng ta và chiếu từ bên trong chúng ta. Nhưng niềm khao khát của chúng ta về việc nhìn thấy một cách toàn thể, và không chỉ đơn thuần nơi các phân mảng của lịch sử, vẫn còn và sẽ được no thỏa vào thời điểm cuối cùng, khi mà như Thánh Au-gus-ti-nô nói, chúng ta sẽ nhìn vấy và sẽ yêu [30]. Và không phải bởi vì Thánh Nhân sẽ có khả năng để sở hữu toàn bộ ánh sáng, một thứ ánh sáng sẽ luôn bất tận, song vì Ngài sẽ hoàn toàn và thậm chí đi vào trong ánh sáng.

34.Ánh sáng của tình yêu phù hợp với đức tin có thể chiếu vào các câu hỏi của chính thời đại chúng ta về chân lý. Chân lý ngày hôm nay thường được giảm thiểu vào tính xác thực mang tính chủ quan của cá nhân, có giá trị chỉ với cuộc sống của cá nhân. Một chân lý chung đe dọa chúng ta, bởi vì chúng ta nhận diện chúng bằng các nhu cầu không khoan nhượng của các hệ thống chủ nghĩa chuyên chế. Nhưng nếu chân lý là một chân lý của tình yêu, nếu nó là một chân lý được khai mở trong sự gặp gỡ đích thân với một Đấng Khác và với người khác, thì nó có thể được giải phóng khỏi các hàng rào của chính nó trong các cá nhân và trở nên một phần của điều thiện chung. Bởi vì nó bắt nguồn từ tình yêu, có thể thâm nhập vào con tim, vào cõi lòng riêng của mỗi người nam và người nữ. Nên rõ ràng là, đức tin không phải là không có sự khoan nhượng, nhưng lớn lên trong sự đồng tồn tại và tôn trọng lẫn nhau. Người tin không thể tự phụ; trái lại chân lý dẫn đến sự khiêm nhượng, bởi vì người tin biết điều đó hơn là chính bản thân chúng ta sở hữu chân lý, nó là chân lý ôm ấp và sở hữu chúng ta. Không những không làm cho chúng ta trở nên cứng nhắc, sự đảm bảo của đức tin tạo ra cho chúng ta một chuyến hành trình; nó có thể làm chứng và đối thoại với tất cả.

Và ánh sáng của đức tin, được nối liền với chân lý của tình yêu, cũng không bắt nguồn ở ngoài thế giới vật chất, bởi vì tình yêu luôn tồn tại trong thân thể và tinh thần. Ánh sáng của đức tin là hiện thân của một ánh sáng mà nó tỏa ra từ cuộc đời chiếu sáng của Chúa Giê-su. Nó cũng chiếu sáng thế giới vật chất và xây dựng trật tự của chính nó, và nhận ra rằng, ngay trong chính nó, một con đường của sự hòa điệu và của sự hiểu biết toàn diện sẽ mở ra. Vì thế cái nhìn của khoa học được lợi từ đức tin: điều này mời gọi các nhà khoa học hãy mở chính mình ra đối với thực tại trong tất cả sự phong phú vô tận của nó. Đức tin khêu gợi lên một sự nhận thức có phê phán, bằng cách làm cho sự nghiên cứu tránh khỏi sự tự thoả mãn với những cách thức của chính nó và giúp nó nhận ra rằng, bản chất của vấn đề này luôn luôn được vượt qua. Bằng cách kích thích sự tự đặt ra những vấn nạn trước mầu nhiệm sâu xa của sự sáng tạo, đức tin mở rộng chân trời của lý trí và chiếu tỏa ánh sáng tốt hơn nữa trên thế giới – tức một  thế giới mà sự nghiên cứu khoa học dễ tiếp cận.

Đức tin và sự Tìm kiếm Thiên Chúa

35.Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giê-su cũng thắp sáng con đường của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và tạo ra một sự đóng góp riêng biệt của Ky-tô giáo trong việc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác. Bức thư gửi tín hữu Do Thái nói về nhân chứng của những người mà trước khi có giao ước với Ab-ra-ham, họ đã tìm kiếm Thiên Chúa trong đức tin. Về phần E-noch, “trước khi được đem đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt.11,5), có cái gì đó không thể loại trừ đức tin, bởi vì “ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt.11,6). Chúng ta có thể nhìn thấy điều này rằng, con đường của những con người có tín ngưỡng tiến triển trên sự thừa nhận một Thiên Chúa, Đấng quan tâm đến con người, và để nhìn thấy được Ngài thì đó là điều không thể. Thiên Chúa có thể trao phần thưởng nào khác hơn cho những ai tìm kiếm Ngài nếu đó không phải là sự tự để cho chính bản thân của Ngài được tìm thấy? Thậm chí trước đó, chúng ta gặp thấy A-bel, đức tin của ông được ca ngợi, và lễ phẩm của ông dâng, tức lễ phẩm được lấy từ các con đầu trong đàn súc vật của ông (x. Dt. 11,4), vì thế đã làm hài lòng Thiên Chúa. Người có niềm tin cố gắng tìm kiếm các dấu chỉ của Thiên Chúa trong các kinh nghiệm hằng ngày của cuộc sống, trong chu kỳ của các mùa, trong sự sinh hoa kết trái của trái đất và trong sự vần vũ của vũ trụ. Thiên Chúa là ánh sáng và những ai chân thành tìm kiếm Ngài thì sẽ tìm thấy được Ngài.

Hình ảnh về sự tìm kiếm này cũng có thể được nhìn thấy nơi những đạo sĩ được ngôi sao dẫn đường để đi đến Bê-lem (x. Mt. 2,1-12). Đối với họ, ánh sáng của Thiên Chúa xuất hiện khi họ thực hiện một cuộc hành trình, một vì sao dẫn dắt họ trên con đường khám phá. Có thể nói được rằng, ngôi sao chính là sự kiên nhẫn của Thiên Chúa trước con mắt chúng ta, mà đôi mắt ấy của chúng ta cần phải tự thích ứng với ánh hào quang của Thiên Chúa. Người có niềm tin tôn giáo là người đang đi trên cuộc hành trình; người ấy phải sẵn sàng để mình được hướng dẫn, để rồi đi ra khỏi chính mình và sau đó được nhìn ngắm Thiên Chúa, Đấng luôn luôn gây bất ngờ. Sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con mắt chúng ta chỉ cho chúng ta thấy rằng, khi chúng ta đến gần Thiên Chúa, ánh sáng của con người không bị hòa tan trong sự mênh mông của ánh sáng Ngài, như một vì sao bị nhấn chìm bởi rạng đông, nhưng càng được chiếu tỏa rạng rỡ hơn, càng đến gần được với ngọn lửa uyên nguyên hơn, giống như một chiếc gương phản chiếu ánh hào quang vậy. Đức Tin của người Ky-tô hữu vào Chúa Giê-su, Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới, tuyên xưng rằng ánh sáng của Thiên Chúa được tập trung nơi Ngài, trong “cuộc đời tỏa sáng” của Ngài đã biểu lộ ra căn nguyên và tận cùng của lịch sử [31]. Không có kinh nghiệm nào của con người, không có con đường nào của con người tới Thiên Chúa, tức con đường bắt đầu từ ánh sáng này, có thể chiếu sáng và làm thay đổi. Người Ky-tô hữu càng đắm mình vào vòng tròn ánh sáng của Chúa Ky-tô, thì họ càng có thể trở nên hiểu biết và đi theo con đường của mọi người nam và người nữ tiến về Thiên Chúa hơn.

Bởi vì đức tin là một con đường, nên nó vẫn ảnh hưởng trên cuộc sống của những người nam và người ngữ, tức những người dầu không phải là những người có đức tin nhưng họ khao khát tin và tiếp tục tìm kiếm. Tới chừng mực mà họ chân thành mở mình ra cho tình yêu và bắt đầu lên đường với bất kỳ thứ ánh sáng nào mà họ có thể tìm thấy, thậm chí là không biết nó, họ đã  đi trên con đường dẫn đến đức tin. Họ cố gắng hành động như là Thiên Chúa đang tồn tại, bởi vì họ thỉnh thoảng nhận ra tầm quan trọng của Ngài như thế nào như đối với sự tìm ra một chiếc la bàn chắc chắn cho cuộc đời của nhân loại nói chung, hoặc bởi vì họ trải qua một sự khao khát ánh sáng ở giữa bóng tối, nhưng cũng vì trong sự nhận ra sự lớn lao và đẹp đẽ của sự sống mà họ trực cảm được rằng, sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả được tốt đẹp hơn. Thánh I-rê-nê thành Ly-on nói về Ab-ra-ham rằng, trước khi nghe thấy tiếng Thiên Chúa, ông đã sẵn sàng tìm kiếm Ngài: “với sự nồng cháy của con tim” và tìm kiếm “trong khi ông tự đặt ra câu hỏi, Thiên Chúa ở đâu, đã đi lang thang trên toàn thế giới” cho tới khi “lòng thương xót của Thiên Chúa có với ông, ông đã tìm kiếm một mình Ngài trong thinh lặng [32]. Bất cứ ai lên đường để làm điều thiện cho người khác tức là đã sẵn sàng để tiến gần tới Thiên Chúa, đã chấp nhận sự giúp đỡ của Ngài, bởi điều này thuộc về sự năng động của ánh sáng Thiên Chúa, để chiếu sáng con mắt chúng ta, khi chúng ta tiến bước đến sự tròn đầy và viên mãn của tình yêu.

Đức tin và Thần học

36.Bởi đức tin là ánh sáng, nó thu hút chúng ta vào chính nó, mời gọi chúng ta càng ngày càng khám phá đầy đủ hơn nữa về chân trời mà nó chiếu rọi, để chúng ta hiểu biết nhiều hơn nữa về Đấng mà chúng ta yêu mến. Thần học Ky-tô giáo được bắt nguồn từ mong muốn này. Rõ ràng rằng, thần học không thể không có đức tin; nó là một phần trong chính tiến trình của đức tin, tìm kiếm một sự hiểu biết sâu xa hơn về sự tự mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa nơi Chúa Ky-tô. Tính hợp lý trước tiên chứa đựng trong điều rằng, Thần học không đơn giản chỉ là một nỗ lực của lý trí con người để phân tích và để hiểu như được nhìn thấy trong các khoa học thực nghiệm.  Không thể giảm thiểu Thiên Chúa vào trong một đối tượng, một vật thể. Ngài là chủ thể, Đấng đang hành động, Đấng tự hữu để được nhận biết, Đấng tự mạc khải chính mình trong mối tương quan ngôi vị với ngôi vị. Đức tin chân chính định hướng lý trí hầu mở nó ra cho ánh sáng, một ánh sáng đến từ Thiên Chúa, để lý trí được dẫn dắt bởi tình yêu chân lý, có thể đạt được một sự hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa. Các vị Tiến Sỹ và các thần học gia thời trung cổ rất có lý khi cho rằng thần học, như là một khoa học về đức tin, là một sự tham dự vào sự hiểu biết của chính Thiên Chúa về chính Ngài. Nó không chỉ là sự thuyết minh về Thiên Chúa, nhưng trước tiên và trước hết là sự chấp nhận và mưu tìm một sự hiểu biết sâu xa hơn về Lời mà Thiên Chúa nói với chúng ta, Lời mà Thiên Chúa nói về chính Ngài, bởi trong Ngài là một cuộc đối thoại vĩnh cửu về sự hiệp thông, và Ngài cho phép chúng ta đi vào cuộc đối thoại này [33]. Vì thế, thần học đòi hỏi phải có sự khiêm hạ để được “gây xúc động” bởi chính Thiên Chúa, và thừa nhận sự hạn chế của chính nó trước màu nhiệm, trong khi cố gắng tìm hiểu, với những quy tắc phù hợp với lý trí, với sự phong phú vô tận của màu nhiệm này.

Thần học cũng chia sẻ trong dạng thức đức tin của Ky-tô giáo; ánh sáng của nó là ánh sáng của chủ thể tin, đó là Giáo Hội. Một mặt, điều này hàm ý rằng, thần học phải đứng trong sự phục vụ đức tin của người Ky-tô hữu, khiêm tốn hiến thân cho sự bảo tồn và đào sâu đức tin của tất cả mà tiên vàn là của những con người hèn kém nhất. Mặt khác, bởi vì đời sống của nó được dung nạp từ đức tin, nên thần học không thể coi Quyền giáo huấn của Đức giáo hoàng và các giám mục trong sự hiệp thông với ngài như là một thứ gì đó ngoại lai, một giới hạn đối với sự tự do của nó, nhưng là một cái gì đó thuộc về các chiều kích nội tại cấu thành nên nó, vì Quyền huấn dậy đảm bảo sự tiếp xúc của chúng ta với nguồn cội căn nguyên và vì thế cung cấp sự chắc chắn để đạt đến Lời của Chúa Ky-tô trong tất cả sự toàn vẹn của nó.

CHƯƠNG III 
TÔI TRUYỀN LẠI CHO ANH EM
ĐIỀU MÀ CHÍNH TÔI ĐÃ LÃNH NHẬN

(x. 1 Cr 15:3)

Giáo Hội, Người Mẹ Đức tin của Chúng ta

37.Những ai mở lòng mình ra cho tình yêu của Thiên Chúa,  nghe thấy tiếng Ngài và nhận được ánh sáng của Ngài, thì không thể giữ quà tặng này cho riêng mình. Bởi vì đức tin là nghe thấy và nhìn thấy, nên nó cũng được truyền đi như lời và ánh sáng. Khi viết cho tín hữu ở Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô đã sử dụng chính hai hình ảnh này. Một mặt ngài nói: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép : Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.” (2. Cr. 4,13). Lời, một khi được chấp nhận, trở nên một sự đáp trả, một sự tuyên xưng đức tin, loan truyền cho người khác và mời gọi họ tin. Thánh Phao-lô cũng sử dụng hình ảnh của ánh sáng: Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Thiên Chúa như một bức gương ; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó” (2 Cr. 3,18). Nó là một loại ánh sáng được phản chiếu từ mặt một người sang mặt người khác, thậm chí như Mô-sê – mà chính ông đã mang sự phản ánh vinh quang của Thiên Chúa sau khi đàm đạo với Thiên Chúa: “Thiên Chúa….làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Chúa Ki-tô” (2 Cr. 4,6). Ánh sáng của Chúa Ky-tô chiếu tỏa, như trong một chiếc gương, lên trên khuôn mặt của những người Ky-tô hữu; khi nó tỏa ra, nó đến trên chúng ta, ngõ hầu chúng ta cũng có thể chia sẻ trong cái nhìn ấy và phản chiếu ánh sáng đó cho người khác, trong cùng một cách thức mà trong phụng vụ Lễ Phục Sinh, ánh sáng của nến Phục Sinh thắp sáng vô số các ngọn nến khác. Đức tin được truyền qua, chúng ta có thể nói thế, bằng sự tiếp xúc, từ người này sang người khác, ví như một ngọn nến được thắp sáng từ ngọn nến khác. Những người Ky-tô hữu, trong sự nghèo khó của mình, gieo trồng một hạt giống, từ hạt giống ấy nó trở nên một cây lớn, có khả năng lấp đầy thế giới bằng hoa trái của nó.

38.Sự loan truyền đức tin này không chỉ mang ánh sáng đến cho những người nam và người nữ ở mọi nơi, mọi thời; mà nó còn đi qua dòng thời gian, truyền qua từ đời nọ tới đời kia. Bởi đức tin được bắt nguồn từ một sự gặp gỡ diễn ra trong lịch sử và thắp sáng cuộc hành trình của chúng ta trong suốt dòng thời gian, nó phải được chuyển qua cho mọi thời đại. Nó xuyên qua một chuỗi liên tục các chứng nhân mà chúng ta đến để nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Giê-su. Nhưng làm sao điều này lại có thể? Làm sao chúng ta có thể chắc chắn, sau tất cả những thế kỷ này, rằng chúng ta đã gặp được “ Chúa Giê-su đích thực”? Nếu chúng ta chỉ là những cá nhân đơn lẻ tách biệt nhau, nếu điểm xuất phát của chúng ta đơn giản chỉ là bản ngã cá nhân của riêng chúng ta đi tìm trong chính nó cơ sở của sự hiểu biết tuyệt đối chắc chắn, thì một sự chắc chắn của loại này sẽ là không thể. Tôi không thể thẩm tra cho chính tôi những thứ đã xảy ra cách đây quá lâu, từ xa xưa. Nhưng điều này không phải là cách thế duy nhất mà chúng ta có được sự hiểu biết. Con người luôn sống trong mối tương quan. Chúng ta đến từ người khác, chúng ta thuộc về người khác, và cuộc đời của chúng ta được mở rộng nhờ sự gặp gỡ của chúng ta với người khác. Thậm chí sự hiểu biết của chính chúng ta cũng như sự tự nhận thức của chúng ta luôn có tính tương quan; chúng được nối kết với người khác, tức những người đã đi trước chúng ta: ở vị trí đầu tiên, cha mẹ của chúng ta – tức người đã trao cho chúng ta sự sống và tên của chúng ta. Ngôn ngữ tự nó, tức lời mà nhờ nó chúng ta làm nên ý nghĩa của cuộc đời chúng ta và thế giới chung quanh chúng ta, đến với chúng ta từ người khác, được bảo tồn trong trí nhớ sống động của người khác. Sự tự biết chỉ có thể khi chúng ta chia sẻ trong cùng một ký ức lớn lao hơn. Điều giống nhau duy trì tính xác thực cho niềm tin, mang lại sự hiểu biết của con người đến sự tròn đầy của nó. Quá khứ của đức tin, tức các hành động yêu thương của Chúa Giê-su đã mang lại sự sống mới cho thế giới, đến với chúng ta nhờ ký ức của người khác – tức các chứng nhân – và được tiếp diễn trong một chủ thể chuyển tải nó đó là Giáo Hội. Giáo Hội là một Người Mẹ dậy chúng ta nói ngôn ngữ của đức tin. Thánh Gio-an thể hiện điều này trong Tin Mừng của ngài  bằng cách kết hợp gần nhau giữa đức tin và ký ức và kết hợp cả hai với sự làm việc của Chúa Thánh Thần – Đấng, như Chúa Giê-su đã nói, “sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em” (Ga. 14,26). Tình yêu là Chúa Thánh Thần và ở trong Giáo Hội. Tình yêu ấy hợp nhất mọi thời đại và làm cho chúng ta trở thành những người sống cùng thời  với Chúa Giê-su, do vậy hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc hành trình đức tin.

39. Chúng ta không thể tin một mình. Đức tin không đơn giản là một quyết định cá nhân xảy ra trong lòng của người tin, cũng không phải là một mối quan hệ cá nhân giữa cái “Tôi” của người tin và giữa tiếng “Ngài“ thần linh, giữa một chủ thể vô danh và Thiên Chúa. Bởi ngay tại bản chất của nó, đức tin mở ra cho chúng ta cái “Chúng tôi” của Giáo Hội; nó luôn luôn diễn ra bên trong sự hiệp thông của Giáo Hội. Chúng ta được nhắc nhở điều này bằng mẫu Kinh tin kính hỏi đáp được sử dụng trong phụng vụ của Bí Tích Thánh Tẩy. Niềm tin của chúng ta được thể hiện trong sự đáp trả lại một lời mời gọi, mà lời đáp ấy phải được nghe thấy và không phải của riêng tôi; nó tồn tại như là một phần của một cuộc đối thoại và không thể chỉ là một sự tuyên xưng bắt nguồn từ một cá nhân. Chúng ta có thể đáp lại một mình – “tôi tin” – bởi chúng ta là một phần của một sự hiệp thông lớn hơn,  bởi chúng ta cũng nói “chúng tôi tin”. Tính chất rộng mở này đối với cái được gọi là “Chúng tôi” của Giáo Hội, phản ánh tính chất rộng mở nơi tình yêu của chính Thiên Chúa, mà tình yêu ấy không chỉ là một mối quan hệ giữa Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con, giữa một cái gọi là “Tôi” và một cái gọi là “Ngài”, nhưng còn là, trong Thần Khí, một cái gọi là “Chúng tôi”, một sự thông hiệp của những con người. Ở đây chúng ta nhận ra tại sao những người tin thì không bao giờ đơn độc, và tại sao đức tin có khuynh hướng truyền tỏa ra, bởi vì nó mời gọi người khác chia sẻ trong niềm vui của nó.  Những ai đón nhận đức tin thì khám phá ra rằng, các chân trời của họ mở rộng ra các mối quan hệ mới và làm cho cuộc sống trở nên phong phú hơn. Tertullian đã diễn tả rất tốt điều này khi ông mô tả những người dự tòng, tức những người mà „sau khi chịu phép rửa được tái sinh”, được đón vào ngôi nhà của người mẹ của họ, và là thành viên của một gia đình mới, cùng cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha với  nhau và với các người anh chị em của mình [34].

Bí tích và sự Loan truyền Đức tin

40. Giáo Hội, cũng như mọi gia đình, truyền cho con cái của mình toàn bộ kho tàng ký ức của mình. Nhưng làm thế nào để việc truyền giao này diễn ra trong một cách thức mà nó không làm mất đi bất cứ một cái gì, không những thế, còn làm cho mọi thứ trong kho tàng đức tin có được sự hiểu biết sâu xa hơn? Đó là thông qua Truyền Thống được bảo toàn trong Giáo Hội với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần mà chúng ta có được một sự tiếp xúc sống động với sự tưởng nhớ mang tính nền tảng. Điều đã được truyền lại bởi các Tông Đồ - như Công Đồng Va-ti-ca-nô II tuyên bố - “bao gồm tất cả mọi thứ nhằm phục vụ Dân Chúa, làm  cho họ sống đời sống trong sự thánh thiện và gia tăng niềm tin của họ. Theo cách này, Giáo Hội, trong giáo huấn, đời sống và sự thờ phượng của mình, bảo tồn và truyền lại cho mọi thế hệ tất cả những gì là chính mình , tất cả những gì mà Giáo Hội tin”. [35]

Đức tin, quả thực cần một không gian mà trong đó nó có thể được làm chứng và truyền đạt, một phương tiện, một cách thức phù hợp và tương xứng với điều được thông truyền. Để thông truyền nội dung giáo lý thuần túy, thì một ý kiến có thể là đủ, hoặc cũng có thể là một cuốn sách, hoặc nhắc lại một sứ điệp đã được nói ra. Nhưng điều được thông truyền trong Giáo Hội, điều được truyền lại trong Truyền Thống sống động của Giáo Hội lại là ánh sáng mới bắt nguồn từ một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa đích thực, một ánh sáng đụng chạm đến sự sâu thẳm trong sự hiện hữu của chúng ta và chiếm đoạt lòng trí và tình cảm của chúng ta, mở chúng ta ra để đi đến với các mối quan hệ được sống trong sự hiệp thông. Có một phương tiện đặc biệt để truyền giao sự đầy đủ này, một phương tiện có khả năng tham gia vào toàn bộ con người, thân xác và tinh thần, đời sống nội tâm và các mối tương quan với người khác. Đó là các bí tích, được cử hành trong phụng vụ của Giáo Hội. Các bí tích thông truyền một ký ức cụ thể,  được nối liền với thời gian và không gian của cuộc đời chúng ta, được nối kết với tất cả các giác quan của chúng ta, mà với chúng toàn bộ con người chúng ta được tham gia vào như một chi thể của một chủ thể sống động và là một bộ phận của một mạng lưới các mối tương quan huynh đệ. Trong khi các bí tích quả thực là các bí tích của đức tin, thì cũng có thể nói rằng, đức tin tự nó đã sở hữu một cấu trúc mang tính bí tích. Sự làm tỉnh thức của đức tin được nối kết với sự bắt đầu của một ý nghĩa mang tính bí tích mới trong đời sống của chúng ta với tư cách là con người và là người Ky-tô hữu, trong đó những thực tại vật chất và hữu hình có thể được nhìn thấy và vượt qua chính bản thân chúng để đi tới mầu nhiệm của Đấng Vĩnh Cửu.

41. Sự thông truyền đức tin diễn ra đầu tiên và trước hết qua bí tích rửa tội. Một số người có thể nghĩ rằng, bí tích rửa tội chỉ là một cách thức biểu tượng hóa sự tuyên xưng đức tin, một công cụ có tính sư phạm đối với những ai đòi hỏi một hình ảnh và dấu chỉ, trong khi tự bản thân nó rốt cục không cần thiết. Một lời nhận xét của Thánh Phao-lô về bí tích rửa tội đã nhắc cho chúng ta hiểu về điều này rằng, không phải như thế. Thánh Phao-lô đã tuyên bố: “Vì được dìm vào trong cái chết của Chúa Ky-tô, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm.6,4). Trong bí tích rửa tội chúng ta trở nên một tạo vật mới và tái sinh làm con cái của Thiên Chúa. Thánh Tông Đồ tiếp tục nói rằng, người Ky-tô hữu được giao cho “một Giáo lý chính quy“ (týpos didachés), mà bây giờ họ hết lòng vâng theo (x. Rm.6,17).Trong bí tích rửa tội, chúng ta nhận được cả hai lời dậy để được tuyên xưng, và một cách đặc biệt của cuộc sống – tức một cuộc sống đòi hỏi sự tham dự toàn bộ con người và đặt chúng ta trên con đường tiến tới sự thiện hảo. Những ai được chịu bí tích rửa tội có nghĩa là được đặt vào trong một thực thể mới, được trao phó cho một môi trường mới, một con đường mới và được chia sẻ các hoạt động trong Giáo Hội. Sau đó, bí tích rửa tội làm chúng ta có thể thấy được rằng, đức tin không phải là sự đạt được của những cá nhân riêng lẻ; nó không phải là một hành động mà một ai đó có thể thực hiện một mình, nhưng đúng hơn là một thứ gì đó phải được nhận lấy bằng cách đi vào sự hiệp thông của Giáo Hội, tức sự hiệp thông truyền giao ân sủng của Thiên Chúa. Không ai tự rửa tội cho mình, bởi vì chẳng có ai tự mình đi vào thế giới này. Bí tích rửa tội là cái gì đó mà chúng ta nhận lãnh.

42. Nhưng yếu tố nào của bí tích rửa tội dẫn chúng ta đi vào “một Giáo lý chính quy” mới này? Thứ nhất, danh của Thiên Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – được cầu khẩn trên người  dự tòng. Do vậy, từ sự bắt đầu, một tổ hợp của chuyến hành trình đức tin đã được cung cấp. Thiên Chúa, Đấng đã gọi Ab-ra-ham; Thiên Chúa, Đấng tiết lộ tên của Ngài cho Mô-sê; Thiên Chúa, Đấng đã thể hiện trong việc tặng ban cho chúng ta Người Con của Ngài, đã mặc khải trọn vẹn màu nhiệm Danh của Ngài, bây giờ ban cho người chịu phép rửa một căn tính mới của việc làm con. Điều này được thấy một cách rõ ràng trong hành động của chính bí tích rửa tội: nhấn chìm trong nước. Nước ngay lập tức là một biểu tượng của sự chết, mời gọi chúng ta vượt qua sự tự chuyển hoán tới một căn tính mới và lớn lao hơn, và một biểu tượng sủa sự sống, của dạ mẹ mà ở đó chúng ta được tái sinh nhờ đi theo Chúa Ky-tô trong đời sống mới của Ngài. Bằng cách này, sự nhấn chìm trong nước, bí tích rửa tội nói với chúng ta về một cấu trúc có tính tân hiện sinh của đức tin. Công trình của Chúa Ky-tô thẩm thấu xuyên qua chiều sâu nơi sự hiện hữu của chúng ta và biến đổi tận căn chúng ta, làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa cũng như được chia sẻ thần tính của Ngài. Do vậy, nó làm thay đổi tất cả các mối tương quan của chúng ta, vị trí của chúng ta trong thế giới này và trong vũ trụ, và mở chúng ta ra để đi tới một cuộc sống hiệp thông của chính Thiên Chúa. Sự thay đổi này, một sự thay đổi xảy ra trong bí tích rửa tội, giúp chúng ta hiểu rõ giá trị về tầm quan trọng riêng của giai đoạn dự tòng  – nhờ đó làm tăng thêm con số các Ky-tô hữu trưởng thành, thậm chí ngay trong cội nguồi xã hội của các Ky-tô hữu sơ khai, giờ đây tiếp cận gần hơn với Bí Tích Rửa Tội – cho việc tân Tin Mừng hóa. Nó là con đường chuẩn bị cho bí tích rửa tội, cho sự biến đổi toàn bộ đời sống của chúng ta trong Chúa Ky-tô.

Để hiểu đúng giá trị của sự liên kết này giữa bí tích rửa tội và đức tin, chúng ta cần nhớ lại đoạn văn của Tiên Tri I-sa-i-a, được liên hệ tới Bí Tích Rửa Tội trong nền văn chương Ky-tô Giáo sơ khai: “có đồn trên núi đá làm nơi trú ẩn ... nước uống chẳng lo thiếu bao giờ.” Người nhận bí tích rửa tội, đã được cứu khỏi nước của sự chết, bây giờ được đặt ở “nơi trú ẩn bằng đá”, bởi vì họ đã tìm thấy một nền tảng vững chắc và đáng tin cậy. Nước của sự chết như vậy đã được biến đổi thành nước của sự sống. Bản văn Hy-lạp, khi nói về nước, tức nước mà “chẳng thiếu bao giờ”, đã sử dụng từ pistós, "tín trung". Nước của bí tích rửa tội quả thực là tín trung và đáng tin cậy bởi vì nước ấy chảy bằng sức mạnh nơi tình yêu của Chúa Ky-tô, nguồn mạch của sự đảm bảo của chúng ta trong cuộc hành trình của đời sống.

43.Cấu trúc của phép rửa, mà hình thức của nó như là một sự tái sinh và ở đó chúng ta nhận được một danh xưng và một cuộc đời mới, giúp chúng ta hiểu đúng hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của việc rửa tội cho các em nhỏ. Các em không có khả năng đón nhận đức tin bằng một hành động tự do, cũng không có khả năng tự mình tuyên xưng đức tin ấy; vì thế đức tin của các em được tuyên xưng bởi bố mẹ của các em và bởi những người đỡ đầu của các em. Bởi đức tin là một thực tại được sống trong cộng đoàn Giáo Hội, một phần của một cái chung “Chúng ta”, nên các em có thể được hỗ trợ, được giúp đỡ bởi những người khác, cha mẹ và người đỡ đầu của các em, và được đón nhận vào trong đức tin chung của họ, đó là đức tin của Hội Thánh; điều này được biểu trưng hóa bởi ngọn nến sáng mà cha mẹ của đứa trẻ thắp sáng từ ngọn nến Phục Sinh. Vì thế, cấu trúc của bí tích rửa tội thể hiện sự quan trọng thiết yếu của sự phối hợp giữa Hội Thánh và gia đình trong sự thông truyền đức tin. Cha mẹ được kêu gọi, như Thánh Au-gus-ti-nô đã từng nói, không chỉ mang các em đến với thế giới, nhưng còn mang chúng đến với Chúa, ngõ hầu thông qua bí tích rửa tội, các em có thể được tái sinh làm con cái của Thiên Chúa và lãnh nhận ân ban đức tin [38]. Vì thế, trong  suốt cuộc đời, các em được trao cho một định hướng căn bản và được đảm bảo một tương lai tốt lành; sự định hướng này sẽ được tăng cường hơn nữa trong bí tích Thêm Sức với sự đóng ấn của Chúa Thánh Thần.

44. Đặc tính bí tích của đức tin được thể hiện cao nhất nơi bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng quý giá của đức tin: một sự gặp gỡ với Đức Ky-tô đích thực đang hiện diện nơi hành động tột cùng của tình yêu Ngài, quà tặng-trao ban-sự sống của chính Ngài. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta tìm thấy sự giao hội của  hai chiều kích đức tin. Một mặt, có chiều kích của lịch sử: Thánh Thể là một hành động của sự tưởng nhớ, một tặng phẩm của màu nhiệm tình yêu mà trong đó quá khứ, biến cố chết và phục sinh, chứng tỏ khả năng của nó mở ra một tương lai, báo hiệu sự viên mãn cuối cùng. Phụng vụ nhắc nhớ cho chúng ta về điều này bằng cách nhắc lại lời hodie  “hôm nay“ của các màu nhiệm cứu độ. Mặt khác, chúng ta cũng tìm thấy chiều kích dẫn đưa từ thế giới hữu hình sang thế giới vô hình. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta học biết được các chiều cao sâu của thực tại. Bánh miến và rượu được biến thành Mình và Máu Chúa Ky-tô – Đấng đã trở thành hy tế dâng lên Thiên Chúa Cha trong lễ vượt qua của Ngài: sự vận động này thu hút chúng ta, thể xác và linh hồn, đi vào sự vận động của tất cả sự tạo dựng tiến tới sự viên mãn của nó trong Thiên Chúa.

45. Trong việc cử hành các bí tích, Giáo Hội truyền giao sự tưởng niệm của mình, đặc biệt thông qua việc tuyên xưng đức tin. Kinh Tin Kính không chỉ liên quan đến việc đưa ra sự tán thành của một người với một mớ các chân lý  trừu tượng, mà còn là - khi nó được đọc- toàn thể đời sống được lôi kéo để đi vào một cuộc hành trình hướng về sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Hằng Sống. Chúng ta có thể nói rằng, trong kinh Tin Kính, các tín hữu được mời gọi đi vào màu nhiệm mà họ tuyên xưng và được nó biến đổi. Để hiểu điều này có ý nghĩa gì, trước hết chúng ta hãy nhìn vào nội dung của kinh Tin Kính. Nó có một cấu trúc mang tính tam vị: Thiên Chúa Cha và Chúa Con thông hiệp trong Thần Khí tình yêu. Vì thế người tín hữu tuyên xưng rằng: đây là cốt lõi của tất cả sự hiện hữu, huyền nhiệm sâu thẳm nhất của mọi thực tại, một sự hiệp thông thần linh. Kinh Tin Kính cũng chứa đựng một tuyên xưng Ky-tô học: nó đưa chúng ta xuyên qua tất cả các màu nhiệm nơi cuộc đời của Chúa Ky-tô cho đến cái chết, sự phục sinh và về trời của Ngài trước khi Ngài trở lại trong vinh quang. Nó nói cho chúng ta rằng, Thiên Chúa của sự hiệp thông, của tình yêu qua lại giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, có khả năng ôm lấy lịch sử nhân loại và thu hút nó đi vào sự hiệp thông sống động của Thiên Chúa,  mà sự hiệp thông ấy bắt nguồn và viên mãn trong chính Thiên Chúa Cha. Người tín hữu tuyên xưng đức tin của mình, được tiếp nhận - có thể nói như vậy - vào chân lý được tuyên xưng. Người tín hữu không thể đọc một cách chân thật lời của kinh Tin Kính mà không bị thay đổi, không trở nên một phần của lịch sử yêu thương mà nó ôm ấp chúng ta và trải rộng sự hiện hữu của chúng ta, làm nó trở thành một phần của sự thông hiệp vĩ đại, chủ thể cuối cùng của việc đọc kinh Tin Kính, cụ thể là Giáo Hội. Tất cả các chân lý mà chúng ta tin vào đều hướng tới màu nhiệm đời sống mới của đức tin như là một cuộc hành trình thông hiệp với Thiên Chúa Hằng Sống.

Đức tin, sự Cầu nguyện và Mười Điều Răn

46. Có hai yếu tố thiết yếu khác trong việc thông truyền trung thực ký ức của Giáo Hội. Thứ nhất là lời Kinh của Chúa: Kinh “Lạy Cha”. Ở đây, người Ky-tô hữu học biết sự chia sẻ trong kinh nghiệm thiêng liêng của chính Chúa Ky-tô, và nhìn mọi thứ thông qua đôi mắt của Ngài. Từ Ngài – Đấng là ánh sáng bởi ánh sáng, Chúa Con duy nhất được sinh ra từ Chúa Cha, chúng ta đến để nhận biết Thiên Chúa và vì vậy có thể thắp lên nơi người khác ngọn lửa khao khát đến gần Ngài.

Điều quan trọng tương tự là mối liên hệ giữa Đức tin và Mười Điều Răn. Đức tin, như chúng ta đã nói, tạo ra một dạng thức của một chuyến hành trình, một con đường để bước theo, bắt đầu bằng một sự gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng Sống. Nó ở trong ánh sáng đức tin, ánh sáng của sự trao phó cho Thiên Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ, rằng Mười Điều Răn mang chân lý sâu xa nhất của nó, khi được đọc ngay từ các lời giới thiệu về các điều răn này: “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh.20,2). Mười Điều Răn không phải là một bộ điều răn có tính tiêu cực, nhưng là những hướng dẫn cụ thể được ban ra tại sa mạc của sự ích kỷ và bản ngã tự rào kín nhằm đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa, được bồng ẵm bởi lòng thương xót của Ngài, và sau đó mang lòng thương xót ấy cho người khác. Vì thế, đức tin tuyên xưng tình yêu của Thiên Chúa, nguồn gốc và trụ cột của muôn loài muôn vật, và để tự bản thân nó được hướng dẫn bởi tình yêu này nhằm để tiến bước trong cuộc hành trình tiến về sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa. Mười Điều Răn xem ra như là con đường của sự biết ơn, của sự đáp trả tình yêu, được trao sức mạnh, bởi trong đức tin, chúng ta dễ dàng tiếp thu kinh nghiệm về tình yêu biến đổi ấy của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và con đường này nhận được ánh sáng mới từ lời dậy của Chúa Giê-su trong Bài Giảng trên Núi (x. Mt.5-7).

Vì thế, đây là bốn yếu tố tạo thành kho ký ức mà Giáo Hội chuyển giao: tuyên xưng đức tin, cử hành các bí tích, sự tuân giữ mười điều răn, và cầu nguyện. Việc truyền thụ Giáo lý của Hội Thánh, theo truyền thống, được sắp xếp xung quanh bốn yếu tố ấy; điều này bao gồm Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, một sự hỗ trợ căn bản cho hoạt động đồng nhất mà với hoạt động ấy, Giáo Hội thông truyền toàn bộ nội dung đức tin của mình: “tất cả bản thân Giáo Hội và tất cả những gì mà Giáo Hội tuyên xưng". [39]

Sự Thống nhất và Toàn vẹn của Đức tin

47. Sự hiệp nhất của Giáo Hội trong không gian và thời gian được nối liền với sự thống nhất của đức tin: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí … một Đức tin” (Ep.4,4-5). Ngày nay chúng ta có thể hình dung ra được có một nhóm người đang hiệp nhất với nhau trong cùng một công việc chung, yêu thương lẫn nhau, sẻ chia cùng một số phận và có cùng một mục đính. Nhưng chúng ta cảm thấy khó tưởng tượng về một sự hiệp nhất trong một chân lý. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng, một sự hiệp nhất của loại này không thích hợp với sự tự do tư tưởng và sự tự chủ cá nhân. Nhưng kinh nghiệm của tình yêu chỉ cho chúng ta thấy rằng, một cái nhìn chung là có thể, vì thông qua tình yêu, chúng ta học được cách nhìn thực tại thông qua đôi mắt của người khác, không phải như cái gì đó làm giảm bớt, hạn chế cái nhìn của chúng ta, mà thay vào đó làm phong phú cái nhìn của chúng ta. Tình yêu chân thật, giống như tình yêu của Thiên Chúa, rốt cục đòi hỏi phải có sự thật, và sự chiêm nghiệm chung về chân lý Đức Giê-su Ky-tô, làm cho tình yêu có thể trở nên sâu nặng và bền lâu. Đây cũng là niềm vui to lớn của đức tin: một sự hiệp nhất trong một thân thể và một tinh thần. Thánh Lê-ô Cả đã có thể nói: “nếu đức tin không là một, thì nó không phải là đức tin” [40].

Bí ẩn của sự hiệp nhất này là gì? Trước hết, đức tin là “một”, bởi vì tính độc nhất của Thiên Chúa – Đấng được biết tới và được tuyên xưng. Tất cả các tín điều đều nói về Thiên Chúa; chúng là những con đường để nhận biết Ngài và các công việc của Ngài. Cho nên, sự hiệp nhất của chúng vượt ra xa bất kỳ sự định hình nào của lý trí con người. Chúng sở hữu một sự thống nhất và làm cho chúng ta trở nên phong phú hơn bởi vì nó được trao cho chúng ta và làm chúng ta nên một.

Đức tin cũng là một bởi nó được định hướng tới một Thiên Chúa, tới sự sống nơi Chúa Giê-su, tới lịch sử cụ thể mà Ngài chia sẻ với chúng ta. Thánh I-rê-nê thành Lyon đã làm rõ điều này trong một cuộc đấu tranh chống lại phái Duy Tri. Phái Duy Tri cho rằng, có hai loại đức tin: một là đức tin thô sơ, không hoàn hảo, phù hợp với đại quần chúng, nó vẫn còn ở cấp độ nhục thể của Chúa Giê-su và sự chiêm nghiệm các màu nhiệm của Ngài; và hai là đức tin sâu xa hơn, hoàn hảo hơn, được dành cho một nhóm người đã được thụ giáo, tức những người về mặt trí tuệ có khả năng vượt lên trên nhục thể của Chúa Giê-su hướng tới các màu nhiệm thần tính. Trái ngược với tuyên bố này, mà thậm chí ngay chính nó cũng tạo ra một sự hấp dẫn nhất định, và có những người đi theo nó, Thánh I-rê-nê nhấn mạnh rằng, chỉ có một đức tin, vì nó được dựa vào biến cố cụ thể của sự hóa thành xác thể và không bao giờ có thể vượt trên nhục thể và con người lịch sử của Chúa Ky-tô, bởi Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình một cách đầy đủ, trọn vẹn nơi nhục thể đó. Vì lý do này, Thánh nhân nói, không có sự khác biệt trong đức tin của “những người có thể thuyết trình dài về nó” và “những người cũng nói nhưng nói ít hơn”, giữa những người vĩ đại hơn và những người thấp kém hơn: loại người thứ nhất không thể làm tăng thêm đức tin, và loại người thứ hai cũng không làm giảm bớt đức tin [41].

Cuối cùng, đức tin là một, bởi nó được chia sẻ bởi toàn thể Giáo Hội, mà Giáo Hội là một thân thể và một Thánh Thần. Trong sự hiệp thông của một chủ thể là Giáo Hội, chúng ta lãnh nhận được một cái nhìn chung. Bằng việc tuyên xưng cùng một đức tin, chúng ta đứng vững trên cùng một tảng đá, chúng ta được biến đổi bởi cùng một Thần Khí tình yêu, chúng ta tỏa ra một ánh sáng và chúng ta có một cái nhìn xuyên thấu thực tại.

48. Mà bởi đức tin là một, nên nó phải được tuyên xưng trong tất cả sự tinh tuyền và toàn vẹn của nó. Quả thế, bởi tất cả các tín điều đều có mối liên hệ với nhau, nên việc phủ nhận một trong các tín điều, thậm chí ngay cả những tín điều xem ra ít quan trọng nhất, điều đó có nghĩa là đã làm méo mó toàn bộ. Mỗi giai đoạn lịch sử có thể tìm thấy điểm này hoặc điểm kia của đức tin dễ hơn hoặc khó chấp nhận hơn: vì thế cần thận trọng trong việc đảm bảo rằng, nguồn gốc của đức tin được chuyển giao trong sự toàn vẹn của nó (x. Tm.6,20) và rằng, mọi khía cạnh của việc tuyên xưng đức tin được nhấn mạnh một cách thích đáng và đúng lúc. Qủa thực, vì sự thống nhất của đức tin là sự hiệp nhất của Giáo Hội, nên loại trừ một số điều gì đó từ trong kho tàng của đức tin có nghĩa là đã loại trừ một điều gì đó từ sự chân thật của sự hiệp thông. Các Giáo Phụ đã mô tả đức tin như là một thân thể, mà thân thể ấy gồm có các chi thể khác nhau, bằng sự tương đồng với thân thể của Đức Ky-tô và sự nối dài của nó trong Giáo Hội [42]. Sự toàn vẹn của đức tin cũng được gắn chặt với hình ảnh của Giáo Hội như một trinh nữ và sự chung thủy của mình trong tình yêu đối với Chúa Ky-tô, phu quân đích thực của mình; làm tổn hại đức tin có nghĩa là làm tổn hại sự thông hiệp với Thiên Chúa [43]. Vì thế, sự hiệp nhất của đức tin là sự hiệp nhất của một thân thể sống động; điều này đã được Chân Phước Gio-an Hen-ri Niu-mân nêu ra một cách rõ ràng khi ngài liệt kê ra các chú ý tiêu biểu trong việc nhận ra sự liên tục của Giáo lý, mà ở đây có sự vượt qua mọi thời với sức mạnh có thể thu nhận mọi thứ mà nó gặp trong các môi trường khác nhau, cũng như tại chính nơi mà nó hiện diện, và trong các nền văn hóa khác nhau mà nó gặp [44], thanh lọc tất cả và mang chúng đến với vẻ đẹp tinh tuyền nhất. Vì thế, đức tin được biểu tỏ như là phổ quát và công giáo, bởi ánh sáng của nó trải rộng ra để chiếu rọi toàn bộ vũ trụ và toàn bộ lịch sử.

49. Với tư cách là người kế vị các Tông Đồ - Giáo Hội đã được Thiên Chúa trao ban một tặng phẩm như là một sự trợ giúp đối với sự hiệp nhất trong đức tin cũng như tính thông truyền trọn vẹn của nó. Trên phương diện này, sự liên tục nơi ký ức của Giáo Hội được đảm bảo, và sự tiếp cận với nguồn mạch mà từ đó đức tin chảy ra có thể đạt tới được sự chắc chắn. Vì thế, sự đảm bảo liên tục với các nguồn gốc, được trao cho những người sống theo một cách phù hợp với đức tin sống động mà Giáo Hội đang kêu gọi truyền giao. Giáo Hội phụ thuộc vào sự trung thành của các chứng nhân mà họ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để giao phó cho sứ vụ này. Vì lý do ấy, Quyền Giáo huấn của Hội Thánh luôn luôn nói trong sự vâng phục đối với những điều mà đức tin được dựa vào; nó đáng tin cậy vì sự trung tín của nó trước lời mà nó nghe thấy, duy trì và trình bày lại một cách chi tiết [45].  Trong lời tạm biệt của Thánh Phao-lô gửi cho các kỳ mục tại Giáo đoàn Ê-phê-xô ở Mi-lê-tô, mà Thánh Lu-ca đã thuật lại cho chúng ta trong sách Tông Đồ Công Vụ, ngài làm chứng rằng, ngài đã thực hiện nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài để “rao giảng cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv.20,27). Nhờ Quyền Giáo huấn của Giáo Hội, ý định này có thể đến được với chúng ta trong sự toàn vẹn của nó, và với nó niềm vui có thể được thực hiện một cách trọn vẹn.
  •  

CHƯƠNG IV

NGƯỜI ĐÃ CHUẨN BỊ CHO CÁC NGÀI MỘT THÀNH TRÌ
(cf. Heb 11:16)

Đức tin và sự Thiện phổ quát 

50. Trong khi trình bày câu truyện về các tổ phụ cũng như các người nam và người nữ công chính của Cựu Ước, Thư gửi tín hữu Do Thái đã nhấn mạnh đến một khía cạnh thiết yếu của đức tin nơi họ. Đức tin ấy không chỉ được trình bày như là một cuộc hành trình, mà còn như là một quá trình xây dựng, chuẩn bị một địa điểm mà ở đó con người có thể cư ngụ cùng nhau và với nhau. Người xây dựng đầu tiên là ông No-ê – ông đã cứu gia đình của ông trong một con tàu (Dt.11,7). Tiếp theo là Ab-ra-ham, người được nói đến rằng, nhờ đức tin ông đã ở trong các lều vì ông trông chờ một thành có nền móng vững chắc (x. Dt.11,9-10). Bởi đức tin giúp đi tới một thực tại mới cũng như một sự chắc chắn mới mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban phát. Nếu người có đức tin tìm thấy sự hỗ trợ trong Thiên Chúa tín trung, Thiên Chúa Amen (x. Is.65,16), và như vậy có thể tự trở nên vững chắc, thì chúng ta giờ đây cũng có thể nói rằng, sự vững chắc của đức tin biểu thị một thành trì mà Thiên Chúa đang chuẩn bị cho con người. Đức tin chỉ biểu lộ mức độ vững chắc trong các mối quan hệ của con người khi mà Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ. Đức tin không chỉ tặng ban sự vững chắc bên trong, sự tin tưởng chắc chắn vào Đấng mà họ tin, mà nó còn chiếu giãi ánh sáng của nó trên mọi mối quan hệ của con người, bởi nó được bắt nguồn từ tình yêu và phản chiếu tình yêu của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa – Đấng tự mình đáng tin cậy - ban tặng cho chúng ta một thành trì đáng tin cậy.

51. Đúng vậy, bởi nó được nối liền với tình yêu (x. Gal.5,6), nên ánh sáng đức tin được đặt cụ thể trong việc phục vụ công ích, luật pháp và hòa bình. Đức tin được bắt nguồn từ sự gặp gỡ với tình yêu căn nguyên của Thiên Chúa, ở đó ý nghĩa và sự tốt lành của đời sống chúng ta trở nên rõ ràng; đời sống của chúng ta được chiếu sáng tới một mức độ mà nó đi vào không gian được mở ra, bởi tình yêu ấy, tới một mức độ mà nó trở thành, nói cách khác đi, một con đường và một thực tiễn dẫn đến sự viên mãn của tình yêu. Ánh sáng đức tin có khả năng làm tăng thêm sự phong phú cho các mối tương quan của con người, khả năng duy trì, đáng tin cậy và làm phong phú cho đời sống của chúng ta. Đức tin không kéo chúng ra ra khỏi thế giới này, hoặc tỏ ra không tương thích với những mối bận tâm cụ thể của những người nam và người nữ trong thời đại chúng ta. Không có một tình yêu đáng tin cậy thì không có cái gì có thể thực sự duy trì được sự hiệp nhất giữa những người nam và người nữ. Lúc ấy, sự hiệp nhất của con người sẽ chỉ có thể hình dung được dựa trên cơ sở của những lợi ích, trên sự tính toán của những cái hơn thiệt hoặc trên nỗi sợ hãi nhưng không dựa trên sự thiện phổ quát, không dựa trên niềm vui mà chỉ nhờ vào sự hiện diện của người khác mới có thể đem lại. Đức tin làm cho chúng ta nhận thức rõ được cấu trúc của các mối quan hệ nơi con người, bởi nó nắm được nền tảng cuối cùng của nó và số phận sau cùng trong Thiên Chúa, trong tình yêu thương của Ngài, và vì thế nó chiếu tỏa ánh sáng trên tính nghệ thuật của cấu trúc; được hiểu theo nghĩa hẹp là nó trở nên một sự giúp ích cho sự thiện phổ quát. Đức tin thực sự là một điều tốt lành cho mọi người; nó là một sự tốt lành phổ quát. Ánh sáng của nó không đơn giản chỉ chiếu rọi bên trong Giáo Hội, cũng không chỉ phục vụ việc xây dựng một thành trì vĩnh cửu trong lai thời, mà nó giúp chúng ta xây dựng các xã hội của chúng ta theo cách mà chúng có thể tạo ra một hành trình tiến về một tương lai đầy hy vọng. Thư gửi Do Thái đã đưa ra một ví dụ về khía cạnh này khi nó gọi tên, ở giữa những người nam và người nữ mang đức tin, Samuel và Đa-vid, đức tin đã làm cho các vị “thực hành đức công chính” (Dt.11,33). Sự thể hiện này nhắc đến đức công chính của họ trong nhiệm vụ cai trị, trong sự khôn ngoan để mang hòa bình đến cho dân (x. 1 Sm. 12,2-5; 2 Sm.8,15). Đôi tay của đức tin được giơ lên trời, đồng thời nó bắt tay vào để xây dựng trong đức ái một thành trì dựa trên các mối quan hệ mà trong đó tình yêu của Thiên Chúa được đặt làm nền tảng.

Đức tin và Gia đình

52. Trong cuộc hành trình tiến về thành trì tương lai của Ab-ra-ham, Thư gửi tín hữu Do Thái đã đề cập đến lời chúc phúc đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (x. Dt.11,20-21). Môi trường đầu tiên mà ở đó đức tin khai sáng thành trì của con người là gia đình, mà đầu tiên và trước hết đó là sự hợp nhất bền vững giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân. Sự hợp nhất này bắt nguồn từ tình yêu của họ, như là một dấu chỉ về sự hiện diện của tình yêu của chính Thiên Chúa, và bắt nguồn từ sự thừa nhận và chấp nhận sự tốt lành trong sự dị biệt của giới tính, nhờ đó vợ chồng có thể trở thành một xác thể (x. Gen.2,24) và được làm cho có thể sinh ra một sự sống mới, một sự biểu lộ điều thiện, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Sáng Tạo. Được đặt trên nền tảng của tình yêu thương này, một người nam và một người nữ có thể đoan hứa với nhau về một tình yêu hỗ tương trong một cử chỉ cam kết toàn bộ đời sống của họ và phản ánh nhiều đặc điểm của đức tin. Thề hứa yêu thương mãi mãi là có thể khi chúng ta nhận thức được một kế hoạch lớn hơn cả những ý kiến và công việc của chúng ta, một kế hoạch mà nó duy trì, nâng đỡ chúng ta, và làm cho chúng ta có thể dâng toàn bộ tương lai cho người mà chúng ta yêu. Đức tin cũng giúp chúng ta hiểu thấu - trong tất cả sự sâu thẳm và phong phú của nó – sự sinh ra con cái, như là một dấu chỉ của tình yêu của Đấng Sáng Tạo – Đấng đã trao phó cho chúng ta màu nhiệm của một con người mới. Bà Sa-ra, nhờ đức tin, đã trở thành một người mẹ, vì bà đã tin tưởng vào sự trung tín của Thiên Chúa đối với lời hứa của Ngài (x. Dt.11,11).

53. Trong gia đình, đức tin đi cùng với mọi giai đoạn của cuộc đời, bắt đầu với tuổi ấu thơ: trẻ em học biết để tin tưởng vào tình yêu của cha mẹ chúng. Đây là lý do tại sao nó rất quan trọng, đến nỗi trong các gia đình, cha mẹ cổ võ, khuyến khích sự thể hiện chung về đức tin, điều đó có thể giúp các em dần dần lớn lên trong đức tin của chính các em. Đặc biệt những người trẻ đang đi qua giai đoạn của quãng đời rất phức tạp, phong phú và quan trọng đối với đức tin của họ, cần cảm thấy sự gần gũi không ngừng và sự hỗ trợ, nâng đỡ của gia đình và Giáo Hội trong cuộc hành trình đức tin của họ. Tất cả chúng ta đều đã thấy, trong những Ngày Giới Trẻ Thế Giới, niềm vui mà các người trẻ thể hiện trong đức tin của họ cũng như trong sự khao khát của họ cho một đời sống đức tin phong phú và vững chắc hơn bao giờ hết. Những người trẻ muốn sống một cuộc sống trong sự tràn đầy nhất. Việc gặp gỡ Chúa Ky-tô, để mình được bắt kịp và được hướng dẫn bởi tình yêu của Ngài, đã mở rộng các chân trời hiện hữu, cho nó một niềm hy vọng chắc chắn mà sẽ không phải thất vọng. Đức tin không phải là nơi ẩn náu của người nhát gan, nhưng là cái gì đó làm tăng cường đời sống của chúng ta. Nó làm chúng ta nhận thức được một tiếng gọi to lớn, thiên hướng của tình yêu. Nó đảm bảo với chúng ta rằng, tình yêu này là đáng tin cậy và đáng ôm lấy, bởi vì nó được dựa trên sự trung tín của Thiên Chúa, và nó mạnh mẽ hơn bất kỳ sự yếu đuối nào của chúng ta.

Một Ánh sáng cho Cuộc sống trong Xã hội

54. Được hấp thụ và được đào sâu trong gia đình, đức tin trở thành một ánh sáng có khả năng chiếu soi tất cả các mối quan hệ của chúng ta trong xã hội. Nó đặt chúng ta trên con đường của tình huynh đệ như một trải nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Tính hiện đại cần được xây dựng trên một tình huynh đệ phổ quát dựa trên sự bình đẳng, như chúng ta đã dần dà nhận ra rằng, tình huynh đệ này, nếu thiếu vắng sự quy chiếu về một vị Cha chung như là nền tảng tối hậu của nó, thì không thể kéo dài. Chúng ta cần trở lại với nền tảng đích thực của tình huynh đệ. Lịch sử của đức tin đã bắt đầu từ sự khởi phát của một lịch sử tình huynh dệ, dù có thể có sự xung đột. Thiên Chúa gọi Ab-ra-ham ra khỏi xứ sở của ông để tiến về phía trước, và hứa làm cho ông thành một quốc gia lớn, một dân tộc vĩ đại mà sự chúc phúc của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại phụ thuộc vào họ. Khi lịch sử cứu độ diễn tiến, nó trở nên rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn làm cho mọi người chia sẻ với nhau như là những anh chị em của nhau trong lời chúc phúc đó, điều sẽ đạt tới được sự viên mãn của nó trong Chúa Giê-su, ngõ hầu tất cả mọi người có thể trở nên một. Tình yêu vô biên của Chúa Cha cũng đến với chúng ta, trong Chúa Giê-su, thông qua những người anh chị em của chúng ta. Đức tin dậy chúng ta nhìn thấy rằng, mọi người nam và người nữ đại diện cho một lời chúc phúc đối với tôi, rằng ánh sáng của khuôn mặt Thiên Chúa chiếu rọi trên tôi thông qua khuôn mặt của các anh chị em của tôi.

Cái nhìn của đức tin Ky-tô giáo đã mang lại biết bao lợi ích cho thành trì của con người vì cuộc sống chung của họ! Nhờ đức tin, chúng ta đến để hiểu được nhân phẩm độc nhất của mỗi người, tức điều đã không được nhìn thấy một cách rõ ràng trong thời xa xưa.Vào thế kỷ thứ hai, Celsus – một người ngoại giáo – đã chê bai những người Ky-tô giáo về một ý tưởng mà ông cho là ngốc nghếch và ảo tưởng: cụ thể là, Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới cho con người, đặt con người ở vị trí cao trọng nhất của toàn thể vũ trụ. “Tại sao cứ phải nói rằng [cỏ] lớn lên vì lợi ích của con người hơn là vì tính hoang dại của các súc vật?” [46] “Nếu chúng ta nhìn xuống trái đất từ các tầng trời, thì liệu thực sự có sự khác biệt nào giữa các hoạt động của chúng ta và các hoạt động của con ong, con kiến không?”  [47]. Trọng tâm của đức tin trong Kinh Thánh là tình yêu thương của Thiên Chúa, là sự quan tâm cụ thể của Ngài đối với mọi người, và kế hoạch cứu độ của Ngài ôm lấy toàn bộ nhân loại và tất cả các tạo vật, thể hiện tuyệt đỉnh nơi sự nhập thể, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ky-tô. Không có cái nhìn sâu vào những thực tại này, thì chẳng có tiêu chuẩn nào để phân biệt được cái gì làm cho sự sống con người quý giá và độc nhất. Con người đánh mất đi vị trí của mình trong vũ trụ, bị đặt để trong sự bấp bênh của tự nhiên, hoặc từ chối trách nhiệm đạo đức hợp lý của mình, hoặc lại tiếp tục với một sự lựa chọn của sự phán xét tuyệt đối, được phú cho một sức mạnh không giới hạn để điều khiển thế giới xung quanh mình.

55. Mặt khác, đức tin, bằng việc mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Sáng Tạo, làm cho chúng ta có thể tôn trọng toàn bộ thế giới thụ tạo nhiều hơn nữa, và nhận ra trong đó một trật tự ngữ pháp được viết bởi bàn tay của Thiên Chúa và một nơi cư ngụ được giao phó cho sự bảo vệ và chăm sóc của chúng ta. Đức tin cũng giúp chúng ta nghĩ ra các mô hình phát triển được dựa trên không chỉ lợi ích và lợi nhuận, nhưng còn xem sự sáng tạo như là một quà tặng mà tất tả chúng ta mang ơn; nó dậy chúng ta sáng tạo ra một dạng thức cai trị có tính công lý, trong sự nhận ra rằng, quyền bính đến từ Thiên Chúa và là phương tiện để phục vụ lợi ích chung. Đức tin cũng tạo ra khả năng tha thứ, điều thông thường cần thời gian và nỗ lực, kiên nhẫn và thứ tha. Tha thứ là điều có thể thực hiện khi chúng ta khám phá ra rằng, điều thiện luôn luôn được ưu tiên trước và có sức mạnh hơn điều xấu, và rằng lời mà Thiên Chúa đảm bảo cho đời sống chúng ta sâu xa hơn mọi phủ nhận của chúng ta. Từ một quan điểm nhân loại học thuần túy, sự hiệp nhất luôn cao hơn sự chia rẽ; thay vì tránh né sự chia rẽ, chúng ta cần đương đầu với nó trong một nỗ lực để giải quyết và vượt lên nó, mang đến cho nó một sự liên kết trong một chuỗi, như là một tiến trình tiến tới sự hiệp nhất.

Khi đức tin bị yếu đi, thì nền tảng của cuộc sống cũng có nguy cơ bị yếu đi, như Nhà thơ T.S. Eliot đã cảnh báo: “Bạn có cần phải nói cho bạn biết, thậm chí ngay cả trong những thành tựu khiêm tốn nhất, khi bạn có thể lấy làm kiêu hãnh theo cách lịch thiệp của xã hội, thì cũng sẽ hầu như không tồn tại lâu dài hơn đức tin mà nhờ đó chúng có ý nghĩa?” [48]. Nếu chúng ta loại bỏ đức tin vào Thiên Chúa khỏi các thành trì của chúng ta, thì sự tin tưởng lẫn nhau sẽ trở nên suy yếu, chúng ta sẽ duy trì sự hiệp nhất chỉ bằng sự sợ hãi và sự bền vững của chúng ta sẽ bị đe dọa. Trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy rằng, “Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành trì cho các ngài” (Dt.11,16). Ở đây, sự thể hiện “không hổ thẹn” được nối với sự thừa nhận công khai. Mục đích là để nói rằng Thiên Chúa, bằng những hành động cụ thể, đã làm công khai sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, và rằng Ngài mong muốn củng cố, tăng cường mọi mối tương quan của con người. Qủa thực, có phải chúng ta là những người cảm thấy hổ thẹn khi gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa của chúng ta không? Rằng chúng ta là những người không tuyên xưng Ngài theo đúng nghĩa trong cuộc sống công khai của chúng ta? Đức tin chiếu rọi cuộc sống và xã hội. Nếu nó sở hữu một loại ánh sáng có tính sáng tạo cho mỗi khoảnh khắc mới của lịch sử, thì bởi vì nó đặt mọi sự kiện, biến cố trong mối tương quan với nguồn gốc và số mệnh của tất cả mọi thứ trong Chúa Cha.

Sự An ủi và Sức mạnh giữa những Thử thách Gian truân 

56. Khi viết cho các Tín hữu ở Cô-rin-tô về sự đau khổ và nỗi khổ cực của mình, Thánh Phao-lô đã liên kết đức tin của ngài với sự rao giảng Phúc Âm của ngài. Ở nơi chính bản thân mình, ngài nhận ra sự thực thi đoạn Kinh Thánh như đã chép: “Tôi đã tin, nên tôi mới nói”. Sự nhắc đến ở đây là nhắc đến đoạn Thánh Vịnh 116, trong đó tác giả Thánh Vịnh đã kêu lên rằng: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói : "Ôi nhục nhã ê chề !" (Tv.10). Nói về đức tin thường liên quan đến nói về các thử thách đau khổ, nhưng chính xác là vì trong sự thử thách như thế Thánh Phao-lô đã nhìn thấy sự loan truyền Phúc Âm có tính thuyết phục nhất, vì lẽ trong sự yếu đuối và đau khổ, chúng ta khám phá ra được sức mạnh của Thiên Chúa thắng vượt những yếu hèn và đau khổ của chúng ta. Thánh Tông Đồ tự mình đã trải nghiệm một cuộc chết đi để trở nên sự sống cho các Ky-tô hữu (x. 2 Cr.4,7-12). Trong cơn thử thách, đức tin mang lại ánh sáng, trong khi đau khổ và sự yếu đuối làm cho nó trở nên rõ ràng rằng, “chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa” (2 Cr.4,5). Chương mười một của Thư gửi tín hữu Do Thái đã kết luận với một sự nhắc đến những người chịu đau khổ vì đức tin (x Dt.11,35-28); nổi bật trong số những người này là Mô-sê, ông đã tự mang lấy những điều bị ngược đãi của Đấng Mes-si-a (x. v. 26). Người Ky-tô hữu biết rằng, không thể loại bỏ được đau khổ, nhưng đau khổ có thể có ý nghĩa và trở nên một hành động của tình yêu và sự trao phó nơi bàn tay của Thiên Chúa – Đấng không bao giờ từ bỏ chúng ta; theo cách này nó có thể phục vụ như là một khoảnh khắc làm lớn lên trong đức tin và tình yêu. Bằng việc chiêm ngắm sự hiệp thông của Chúa Ky-tô với Thiên Chúa Cha, thậm chí nơi đỉnh điểm sự đau khổ của Ngài trên thập giá (x Mc.13,34), người Ky-tô hữu học để chia sẻ trong cùng một cái nhìn của Chúa Giê-su. Thậm chí sự chết được chiếu rọi và có thể được trải nghiệm như là tiếng gọi cuối cùng đối với đức tin, cuối cùng “Hãy rời bỏ xứ sở” (St.12,1), cuối cùng “Hãy đến!” được nói bởi Thiên Chúa Cha, với Đấng mà chúng ta dám từ bỏ chính mình, trong sự tin tưởng rằng Ngài sẽ giữ chúng ta vững mạnh, thậm chí trong những bước đi cuối cùng trong cuộc hành trình của chúng ta.

57. Ánh sáng đức tin cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới này. Có biết bao nhiêu người nam và người nữ mang đức tin đã tìm thấy những ngọn đèn chiếu sáng từ chính nơi những người phải chịu khổ đau! Như trường hợp của Thánh Phan-xi-cô As-si-si và người phong cùi, hay Chân phúc Tê-re-sa Cal-cut-ta và người nghèo. Họ đã hiểu được màu nhiệm nơi các việc làm của họ. Khi đến với những người chịu đau khổ, chắc chắn họ đã không thể loại trừ tất cả các đau khổ hoặc giải thích được mọi sự xấu. Đức tin không phải là một loại ánh sáng tỏa sáng mọi bóng tối của chúng ta, nhưng là một ngọn đèn hướng dẫn những bước chân của chúng ta trong đêm tối và đủ cho cuộc hành trình của chúng ta. Trước những người đau khổ, Thiên Chúa không cung cấp những luận cứ mà với nó có thể giải thích mọi thứ; đúng hơn, sự trả lời của Ngài là luận cứ của một sự đồng hiện hữu, một lịch sử của sự thánh thiện đụng chạm đến mọi câu truyện đau khổ và mở ra một tia ánh sáng. Trong Chúa Ky-tô, Thiên Chúa tự mình muốn chia sẻ con đường này với chúng ta và ban cho chúng ta cái nhìn của Ngài nhờ vậy chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng trong đó. Chúa Ky-tô là người đã từng chịu đau khổ, là “Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt.12,2).

Đau khổ nhắc nhở cho chúng ta rằng, sự phục vụ của đức tin đối với lợi ích chung luôn luôn là sự phục vụ của hy vọng – một sự hy vọng nhìn thấy phía trước trong sự nhận thức rằng, chỉ khi đến từ Tiên Chúa, đến từ Chúa Giê-su Phục Sinh, thì xã hội của chúng ta mới có thể tìm được nền tảng vững chắc và bền lâu. Theo ý nghĩa này, đức tin được nối liền với hy vọng, bởi vì nếu nơi cư ngụ của chúng ta ở nơi trần thế này đang bị hao mòn đi, thì chúng ta có một nơi cư ngụ vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị nơi Chúa Ky-tô, trong thân thể của Ngài (x. 2 Cr. 4,16 – 5,5).

Trong sự kết hợp với đức tin và đức ái, niềm hy vọng đưa chúng ta tới một tương lai chắc chắn, được thiết định ngược với một chân trời khác của những cám dỗ viển vông mà các ngẫu tượng của thế gian này gợi mở, nhưng mang lại cho đời sống hằng ngày của chúng ta sức mạnh và động lực mới. Chúng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tước mất, hoặc đừng cho phép niềm hy vọng của chúng ta trở nên lu mờ do những câu trả lời và lời giải đáp dễ dãi cản trở bước tiến của chúng ta, “phân mảng” thời gian và biến nó thành không gian. Thời gian luôn luôn vĩ đại hơn nhiều so với không gian. Không gian làm đóng băng các tiến trình, trái lại thời gian đẩy tiến trình đi về tương lai và khuyến khích chúng ta tiến bước trong hy vọng.

Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em (Lc.1,45)

58. Trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Thánh Lu-ca đã kể lại cho chúng ta những lời của Chúa về “đất tốt”: Đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc.8,15). Trong ngữ cảnh Tin Mừng của Thánh Lu-ca, sự đề cập về tấm lòng cao thượng và quảng đại của việc nghe và giữ Lời là một bức chân dung đức tin tuyệt vời của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Chính tác giả Tin Mừng nói về ký ức của Đức Ma-ri-a, Mẹ đã suy niệm trong lòng như thế nào về tất cả những điều Mẹ nghe thấy và nhìn thấy, sao cho Lời có thể sinh hoa kết trái trong cuộc đời của Mẹ. Mẹ Thiên Chúa là biểu tượng đức tin trọn hảo; như Thánh Ê-li-za-bet nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc.1,45).

Nơi Đức Ma-ri-a, Nữ Tử Si-on, lịch sử lâu dài của của niềm tin Cựu Ước được lấp đầy bởi câu truyện của nhiều phụ nữ đạo đức, bắt đầu với Sa-ra - người đã ở bên cạnh các tổ phụ -  mà lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện và sự sống mới trổ bông. Trong thời gian viên mãn, Lời của Thiên Chúa được nói với Đức Ma-ri-a, và Mẹ đã đón nhận lời ấy vào lòng của Mẹ, vào toàn bộ sự hiệu hữu của Mẹ, để rồi từ trong dạ Mẹ, lời ấy nhận lấy xác phàm và được sinh ra làm ánh sáng cho nhân loại. Thánh Jus-tin tử đạo, trong cuộc đối thoại của ngài với Trypho, đã sử dụng một sự thể thiện rất ấn tượng; ngài nói cho chúng ta rằng, Đức Ma-ri-a, khi chấp nhận sứ điệp của thiên thần, đã thụ thai “đức tin và niềm vui” [49]. Nơi người Mẹ Chúa Giê-su, đức tin đã chứng tỏ sự trổ sinh hoa trái của nó; khi đời sống thiêng liêng của chính chúng ta sinh hoa trái, chúng ta được lấp đầy bởi niềm vui, đó là dấu chỉ rõ ràng nhất trong sự cao cả của đức tin. Trong cuộc đời của chính Đức Ma-ri-a, Mẹ đã hoàn thành cuộc hành trình đức tin, theo những bước chân của Con của Mẹ [50]. Do vậy, trong đức tin của Mẹ, cuộc hành trình của Cựu Ước lại được tiếp tục đi vào trong những người đi theo Chúa Ky-tô, được Ngài biến đổi và đi vào cái nhìn của Con Thiên Chúa nhập thể.

59. Chúng ta có thể nói rằng, nơi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a – Đấng được chúc phúc -  chúng ta tìm thấy một điều gì đó mà tôi đã đề cập trong phần trước, cụ thể là người tín hữu được hoàn toàn nâng lên để đi vào trong sự tuyên xưng đức tin của mình. Bởi sự liên kết chặt chẽ của Mẹ với Chúa Giê-su, nên Mẹ liên kết một cách hoàn toàn với những điều chúng ta tin. Là Trinh Nữ và là Mẹ, Đức Ma-ri-a cho chúng ta một dấu chỉ rõ ràng về tư cách làm con Thiên Chúa của Chúa Ky-tô. Nguồn gốc đời đời của Chúa Ky-tô là ở trong Chúa Cha. Ngài là Con theo một nghĩa duy nhất và tuyệt đối, và vì Ngài được sinh ra trong thời gian mà không có sự can thiệp của một người nam. Là Chúa Con, Chúa Giê-su mang lại cho thế giới một sự bắt đầu mới và một ánh sáng mới, sự trọn vẹn nơi Tình yêu chung thủy của Thiên Chúa được ban tặng cho nhân loại. Nhưng cương vị làm mẹ đích thực của Đức Ma-ri-a cũng đảm bảo cho Con Thiên Chúa một lịch sử con người xác thực, xác thể đích thực mà trong đó Ngài sẽ chết trên thập giá và phục sinh từ cõi chết. Đức Ma-ri-a sẽ đi theo chân Chúa Giê-su cho đến tận cây thập giá (x. Ga.19,25), từ đó cương vị làm mẹ của Mẹ sẽ nối dài tới từng người môn đệ của Ngài (x. Ga.19,26-27). Mẹ cũng sẽ có mặt trong nhà tiệc ly sau khi Chúa Giê-su phục sinh và lên trời, tham dự cùng với các Tông đồ để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần (x. Cv.1,14). Sự vận động của tình yêu giữa Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chạy suốt chiều dài lịch sử của chúng ta, và Chúa Ky-tô lôi kéo chúng ta đến với chính Ngài để cứu độ chúng ta (x. Ga.12,32). Tại trung tâm đức tin của chúng ta là sự tuyên xưng Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, được sinh ra bởi một người nữ, mang đến cho chúng ta, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, để trở nên những người con trai con gái của Thiên Chúa (x. Gl.4,4).

60. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ: Mẹ của Giáo Hội và Mẹ của đức tin chúng ta.

Lạy mẹ xin hãy nâng đỡ đức tin của chúng con!

Hãy mở tai chúng con để chúng con nghe thấy Lời của Thiên Chúa và nhận ra tiếng mời gọi của Ngài.

Hãy làm thức tỉnh trong chúng con một niềm khao khát để đi theo những bước chân của Ngài, để ra khỏi xứ sở của chúng con và đón nhận lời hứa của Ngài.

Xin giúp chúng con được đụng chạm bởi tình yêu thương của Ngài, nhờ đó chúng con có thể đụng chạm vào Ngài trong đức tin.

Xin giúp chúng con hoàn toàn trao phó bản thân mình cho Ngài và tin vào tình thương yêu của Ngài, đặc biệt trong những lúc thử thách, dưới bóng cây thập giá, khi đức tin của chúng con được mời gọi để lớn lên.

Xin hãy gieo trong đức tin của chúng con niềm vui của Đấng Phục Sinh.

Xin hãy nhắc nhớ chúng con rằng, những người tin sẽ không bao giờ phải đơn độc. 

Xin dậy chúng con nhìn thấy mọi sự bằng đôi mắt của Chúa Giê-su, rằng Ngài là ánh sáng cho bước đường của chúng con, và ánh sáng đức tin này luôn luôn gia tăng nơi chúng con, cho đến bình minh của ngày bất diệt là chính Chúa Ky-tô, Con của Mẹ và là Chúa của chúng con!

Được ban hành  tại Rô-ma, trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô, vào ngày 29/06/2013, nhân dịp Lễ Kính Thánh Phê-rô và Phao-lô Tông Đồ, năm đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của tôi.

PHAN-XI-CÔ (đã ký)
Phần Ghi Chú:
[1] Dialogus cum Tryphone Iudaeo 121, 2: PG 6, 758.
[2] Clemens von Alexandrien, Protrepticus IX: PG 8, 195.
[3] Thư gửi Elisabeth Nietzsche ngày 11. Tháng 06 năm 1865, thuộc: Những tác phẩm trong ba tập, München 1954, 953f.
[4] Thiên đàng XXIV, 145-147.
[5] Acta Sanctorum, Bollandistae, Junii, I, 21.
[6]  „Mặc dù Công đồng không giải quyết riêng về vấn đề đức tin, nhưng đề cập đến đức tin ở mọi trang văn kiện, thừa nhận đặc tính siêu nhiên và sống động của đức tin, cho rằng đức tin là tròn đầy và chắc chắn, và dựa trên những giáo huấn của Công đồng về đức tin. Đủ để nhớ lại các tuyên bố của Công đồng ... để nhận ra sự quan trọng thiết yếu mà Công đồng - trong sự phù hợp với truyền thống Giáo Lý của Giáo Hội - đều quy về đức tin, đức tin đích thực mà nó có khởi nguồn từ Chúa Ky-tô, và Quyền giáo huấn của Giáo Hội đối với kênh của đức tin“ (Phao-lô VI, buổi Tiếp kiến chung [8/3/1967]: Insegnamenti V [1967], 705).  
[7] Vgl. z. B. Công Đồng Vatican I, Hiến Chế Tín lý về Đức Tin Công Giáo Dei Filius, 3. Kap.: DS 3008-3020; Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín lý về sự Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, 5; Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 153-165.
[8] Vgl. Katechese V, 1: PG 33, 505A.
[9] In Psal. 32, II, s. I, 9: PL 36, 284.
[10] Những câu chuyện của Chassidim, Zürich 1949, 793.
[11] Émile, Paris 1966, 387.
[12] Thư gửi Christophe de Beaumont (1793), Lausanne 1993, 110.
[13] Vgl. In Ioh. Evang. 45, 9: PL 35, 1722-1723.
[14] Teil II, IV.22
[15] De continentia 4,11: PL 40, 356.
[16] về bản chất của Thế Giới Quan Công Giáo (1923), trong: Sự khác biệt của người Ki-tô hữu. Những nghiên cứu thu thập 1923-1963, Mainz 19632, 24.
[17] XI, 30, 40: PL 32, 825.
[18] Vglebd., 825-826.
[19] Vgl. Những ý kiến hỗn hợp / Culture and Value, G. H. von Wright (ed.), Oxford 1991, 32-33; 61-64.
[20] Vgl. Homiliae in Evangelia II, 27, 4: PL 76, 1207.
[21] Vgl. Expositio super Cantica Canticorum XVIII, 88: CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 67.
[22] Ebd., XIX, 90: CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 69.
[23]  “Sự vâng phục đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6) phải là sự đáp trả của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải. Nhờ đức tin, con người tự do ký thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách quy phục trọn vẹn lý trí và ý chí đối với Thiên Chúa, và bằng cách tự ý ưng thuận mạc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa đi trước trước và trợ giúp cũng như sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và làm cho mọi người chấp nhận và tin vào chân lý. Và để người ta hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin bằng các ân sủng của Ngài. (Công đồng Va-ti-ca-nô II Hiến chế Tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, 5).
[24] Vgl. Heinrich Schlier, Những suy tư về thuật ngữ Sự Thật theo Tin Mừng của Thánh Gio-an, trong: Sự Nhận Thức Về Tân Ước. Luận văn chú giải và những bài diễn thuyết 2, Freiburg, Basel, Wien 1959, 272.
[25] Vgl. Summa Theologiae III, q. 55, a. 2, ad 1.
[26] Sermo 229/L, 2: PLS 2, 576: »Tangere autem corde, hoc est credere«.
[27] Vgl. Nr. 73: AAS (1999), 61-62.
[28] Vgl. Confessiones VIII,12,29: PL 32, 762.
[29] De Trinitate XV,11,20: PL 42, 1071: «Verbum quod intus lucet».
[30] Vgl. De civitate Dei XXII30, 5: PL 41, 804.
[31] Vgl. Thánh Bộ Giáo lý Đức Tin, Đoản sắc Dominus Iesus (6. August 2000), 15: AAS 92 (2000), 756.
[32] Demonstratio apostolicae praedicationis 24, SC 406, 117.
[33] Vgl. Bonaventura, Breviloquium, Prol.: Opera Omnia, V, Quaracchi 1891, 201; In I Sent., proem, q. 1, resp.: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 7; Thomas von Aquin, Summa Theologiae I, q. 1.
[34] Vgl. De Baptismo 20, 5: CCL I, 295.
[35] Công Đồng VaticanII, Hiến Chế Tín Lý về sự Mạc Khải của Thiên Chúa - Dei Verbum, 8.
[36] Vgl. Công Đồng VaticanII, Hiến Chế Tín Lý về Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium, 59.
[37] Vgl. Epistula Barnabae 11, 5: SC 172, 162.
[38] Vgl. De nuptiis et concupiscentia I, 4, 5: PL 44, 413: »Habent quippe intentionem generandi regenerandos, ut qui ex eis saeculi filii nascuntur in Dei filios renascantur.«
[39] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về sự Mạc Khải của Thiên Chúa -  Dei Verbum, 8.
[40] In nativitate Domini sermo 4, 6: SC 22, 110.
[41] Vgl. Irenäus, Adversus haereses I, 10, 2: SC 264, 160.
[42] Vgl. ebd., II, 27, 1: SC 294, 264.
[43] Vgl. Augustinus, De sancta virginitate 48,48: PL 40, 424-425: »Servatur et in fide inviolata quaedam castitas virginalis, qua Ecclesia uni viro virgo casta cooptatur «.
[44] Vgl. An essay on the development of Christian Doctrine (1878), Uniform Edition: Longmans, Green and Company, London, 1868-1881, 185-189.
[45] Vgl. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về sự Mạc Khải của Thiên Chúa -  Dei Verbum, 10.
[46] Origenes, Contra Celsum IV, 75: SC 136, 372.
[47] Ebd., 85: SC 136, 394.
[48] Choruses from The Rock, in: The Collected Poems and Plays 1909-1950, New York 1980, 106.
[49] Vgl. Dialogus cum Tryphone Iudaeo 100, 5: PG 6, 710.

[50] Vgl. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội - Lumen gentium, 58. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét