Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Văn kiện đúc kết Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường lần thứ ba về Gia Đình

Văn kiện đúc kết Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường lần thứ ba về Gia Đình
NHỮNG THÁCH ĐỐ MỤC VỤ TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG


LỜI NÓI ĐẦU

1.Được quy tụ chung quanh Đức Thánh Cha, Thượng Hội Đồng Giám mục hướng sự suy tư của mình về tất cả các gia đình trên toàn thế giới với những vui mừng và lo âu cũng như với những niềm hy vọng của họ. Một cách đặc biệt, Thượng Hội Đồng Giám Mục cảm thấy có bổn phận phải tạ ơn Thiên Chúa về sự trung tín lớn lao mà với nó nhiều gia đình Ki-tô giáo đã đáp lại ơn gọi cũng như sứ mạng của mình. Họ thực hiện điều đó với niềm vui và trong Đức Tin, ngay cả khi họ bất ngờ phát hiện ra những giới hạn, những hiểu lầm và những đau khổ trên con đường với tư cách là các gia đình. Sự kính trọng, lòng biết ơn và sự khích lệ của toàn thể Giáo hội cũng như của Thượng Hội Đồng Giám Mục này được dành cho các gia đình. Trong buổi canh thức cầu nguyện tại quảng trường Thánh Phê-rô vào chiều tối thứ Bảy ngày mồng 04 tháng 10 năm 2014, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã lưu ý tới tính trung tâm nơi kinh nghiệm của các gia đình trong đời sống của mỗi người, nhằm chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục qua hình thức đơn giản và cụ thể, khi Ngài nói rằng: „Trong lúc này, màn chiều đang dần buông xuống trên cuộc đoàn tụ của chúng ta. Đây là thời gian mà nhiều người thích trở về nhà, muốn được đoàn tụ chung quanh chiếc bàn, trong tình thân thiện thẳm sâu, trong sức mạnh của những điều tốt lành đã hoàn thành và được đón nhận, của những cuộc gặp gỡ mà chúng sưởi ấm con tim và làm cho nó phát triển, - của rượu ngon mà nó tiên đoán ngày đại tiệc không hề bị lụi tàn trong con người. Đây cũng là giờ khắc khó khăn nhất đối với những con người đang phải đối phó với nỗi cô đơn riêng đang đập vào mắt mình, trong lúc hoàng hôn đầy cay đắng của những giấc mơ đã bị vỡ tung và của những kế hoạch đã bị đổ sập: có biết bao nhiêu con người đang kéo lê những ngày sống trong tình trạng bế tắc vì sự nản chí, vì sự thất vọng hay ít nhất là vì sự oán hận. Có biết bao nhiêu những căn nhà đang bị thiếu rượu niềm vui, và do đó thiếu đi hương vị của cuộc sống, thiếu đi chân lý của chính cuộc sống (…). Vậy trong buổi chiều hôm nay, chúng ta hãy đưa hết người này đến người khác vào trong lời cầu nguyện dành cho tất cả, qua giọng hát cùng với những lời nguyện cầu của chúng ta.“

2.Với tư cách là trung tâm của niềm vui cũng như của những thử thách, của mối thân thiện sâu xa cũng như của những mối quan hệ đôi khi bị gây tổn thương, trong thực tế, gia đình chình là „ngôi trường của sự nhân ái“ (xc. GS, 52), và chúng ta cảm thấy mình cần đến điều đó rất nhiều như thế nào. Bất chấp rất nhiều những dấu hiệu về một sự khủng hoảng nơi cấu trúc gia đình, trong những môi trường khác nhau của „ngôi làng toàn cầu“, niềm mong muốn cho gia đình được sinh động vẫn đang tồn tại, đặc biệt là trong số những người trẻ. Họ giúp Giáo hội có được kinh nghiệm trong sự nhân ái và trung thành với sứ vụ của mình, hầu loan báo „Tin Mừng Gia Đình“ một cách không ngừng, cũng như trong sự xác tín thẳm sâu mà nó được ủy thác cho Giáo hội với sự mạc khải của Tình Yêu Thiên Chúa trong Chúa Giê-su Ki-tô, và được thúc đẩy bởi các Giáo Phụ, các vị Thầy của đời sống tâm linh, và bởi quyền giáo huấn của Giáo hội, không hề bị đứt quãng. Đối với Giáo hội, gia đình có một tầm quan trọng hoàn toàn đặc biệt, và trong phút giây mà trong đó tất cả các tín hữu đều được mời gọi hãy đi ra khỏi chính mình, nó sẽ trở nên cần thiết rằng, gia đình tái khám phá ra mình như là chủ thể không thể thiếu được của việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy nghĩ tới chứng tá truyền giáo của nhiều gia đình.

3.Đức Giám Mục thành Rô-ma đã thúc đẩy Thượng Hội Đồng Giám Mục, trong phiên họp khoáng đại bất thường của mình vào tháng Mười vừa qua, hãy suy tư về thực tại chính yếu và đầy giá trị của gia đình, hầu đào sâu những suy tư ấy trong phiên họp khoáng đại thường kỳ của Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2015, cũng như trong suốt mười hai tháng giữa hai biến cố của Thượng Hội Đồng Giám Mục. „Sự kiện ´convenire in unum - hiệp nhất trong một` chung quanh Đức Giám Mục thành Rô-ma đã là một biến cố thuộc về ân sủng, mà trong đó tinh thần tập thể của Giám Mục đoàn thể hiện trên con đường phân định thiêng liêng và mục vụ“ (ĐTC Phan-xi-cô, Diễn Văn ngày mồng 04.10.2014). Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mô tả về kinh nghiệm của Thượng Hội Đồng Giám Mục như thế, và đã chỉ ra bổn phận phải lắng nghe kép: Lắng nghe trước những dấu chỉ của Thiên Chúa, và lắng nghe trước những câu chuyện của con người, cũng như sứ mạng phải trung tín kép và duy nhất mà nó đi theo sau việc lắng nghe kép ấy.

Trong ánh sáng của bài diễn văn này, chúng tôi đã tập hợp những kết quả từ những suy tư và những cuộc đối thoại của chúng tôi trong ba phần sau đây: Lắng nghe để có thể nhận ra thực tế của gia đình ngày nay trong nhiều tầng lớp của nó, cả với ánh sáng lẫn bóng tối; Cái nhìn hướng về Chúa Ki-tô để suy tư với sự tươi sáng cũng như với sự hăng hái mới về điều mà nó nói cho chúng ta biết về sự mạc khải được lưu truyền trong Đức Tin của Giáo hội, về vẻ đẹp, về vai trò và về phẩm giá của gia đình; phân định với sự đối chiếu trong ánh sáng của Chúa Giê-su để nhận ra xem Giáo hội và cộng đoàn chúng ta có thể trao đi những xung lượng mới như thế nào trong việc lưu tâm của mình tới gia đình mà nó được đặt nền tảng trên đời sống hôn nhân giữa người nam và người nữ.


PHẦN I

LẮNG NGHE: BỐI CẢNH VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA CÁC GIA ĐÌNH

Bối cảnh văn hóa xã hội

5.Trong sự trung tín đối với Giáo huấn của Chúa Ki-tô, chúng tôi quan sát thực tế của gia đình hôm nay trong toàn bộ tính phức tạp của nó, với mặt sáng cũng như mặt tối của nó. Chúng tôi nghĩ tới những người cha, người mẹ, những cụ ông, cụ bà, nghĩ tới những người anh em và chị em, nghĩ tới những người họ hàng gần xa, và nghĩ tới mối liên kết giữa hai gia đình mà nó được gắn kết với nhau thông qua cuộc hôn nhân ấy. Sự thay đổi văn hóa thuộc về nhân loại học tác động tới mọi khía cạnh của cuộc sống ngày nay, và đòi hỏi một sự thích nghi vừa có tính phân tích lại vừa có tính biện phân. Trước tiên, nó có giá trị trong việc biện phân những khía cạnh tích cực: sự tự do biểu lộ lớn hơn, và sự nhận thức tốt hơn về quyền của phụ nữ và trẻ em, ít nhất là trong một số lãnh vực nào đó. Nhưng mặt khác, những mối nguy hiểm đang phát triển cũng phải được chú trọng y như vậy; những mối nguy hiểm này được thể hiện trong chủ nghĩa cá nhân đang phát triển theo xu hướng xấu, tức xu hướng đang làm cho những mối tương quan của gia đình bị biến dạng, và đạt tới cực điểm của nó trong việc nhìn xem các thành viên của gia đình như những ốc đảo. Như vậy, trong một số trường hợp, sự trình diễn của một chủ thể sẽ có ảnh hưởng lớn hơn, tức chủ thể chỉ được hình thành theo những mong muốn riêng, khi mà nó bị tách ly khỏi tất cả. Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng Đức Tin mà nó có liên hệ đến nhiều người Công Giáo, cũng như thường được nhìn thấy nơi gốc rễ của nó từ sự khủng hoảng của đời sống hôn nhân và gia đình.

6.Một hiện tượng nghèo nàn lớn nhất của nền văn hóa ngày nay chính là sự cô đơn như là kết quả của việc thiếu vắng Thiên Chúa trong đời sống nhân loại và sự đổ vỡ của các mối tương quan. Ngoài ra còn có một cảm nhận chung về sự bất lực khi chứng kiến thực tại kinh tế xã hội mà nó thường dẫn tới chỗ các gia đình sẽ bị nghiền nát. Điều đó có lẽ cũng có giá trị với cái nhìn về sự nghèo túng đang lớn dần, và các mối quan hệ khó khăn trong công việc mà đôi khi chúng bị kinh qua như là một cơn ác mộng thực sự, hay như một gánh rất nặng về thuế má đang đè nén, mà chắc chắn chúng đang khuyến khích người trẻ không lập gia đình nữa. Thường thì nhiều gia đình cảm thấy bị bỏ rơi bởi sự thờ ơ lãnh đạm, và bởi mối quan tâm ít ỏi từ phía các cơ quan. Những hậu quả tiêu cực đối với sự thống nhất của cộng đồng đang được nhìn thấy ở khắp nơi: từ cuộc khủng hoảng về nhân khẩu học tới những khó khăn nơi sự giáo dục, từ sự do dự trong việc đón nhận sự sống chưa được sinh ra tới việc coi người già như là gánh nặng, và tới sự lan rộng của một chứng lãnh cảm mà đôi khi chúng đạt tới đỉnh điểm trong bạo lực. Nhà nước có trách nhiệm phải tạo ra những điều kiện hợp pháp và kinh tế mà chúng bảo đảm cho những người trẻ một tương lai, cũng như trợ giúp họ trong kế hoạch lập gia đình.

7.Một số những bối cảnh thuộc về văn hóa và tôn giáo đang thể hiện những thách đố đặc biệt. Trong một số cộng đồng cũng vẫn còn đang tồn tại chế độ đa hôn, và trong một số bối cảnh thuộc về truyền thống cũng vẫn còn đang tồn tại những phong tục „hôn nhân trong từng thời kỳ“. Trong những bối cảnh khác, thực tế hôn nhân bị sắp xếp cũng vẫn đang còn được duy trì. Tại nhiều quốc gia mà trong đó sự hiện diện của Giáo hội Công Giáo rất ít ỏi, vẫn có nhiều những cuộc hôi nhân tôn giáo hỗn hợp, với những nền văn hóa khác biệt, và với tất cả những khó khăn quen thuộc liên quan đến hình thức pháp lý của chúng, của việc cử hành Bí Tích Thanh Tẩy và của việc giáo dục con cái, cũng như với cái nhìn trên sự tôn trọng lẫn nhau đối với tín ngưỡng khác. Trong những cuộc hôn nhân như thế, mối nguy hiểm của chủ thuyết tương đối hay của sự thờ ơ là có thể có, nhưng chúng cũng có thể thúc đẩy tinh thần đại kết và công cuộc đối thoại liên tôn của các cộng đồng đang chung sống một cách hài hòa. Trong nhiều khu vực, không chỉ riêng tại Tây Phương, cuộc sống chung của các cặp trai gái trước hôn nhân đang tiếp tục bị khuếch tán, kể cả những cuộc chung sống hoàn toàn không hề có mục đích trao cho người bạn đời một sự gắn bó được thể chế hóa. Điều đó thường dẫn tới một sự ban hành luật dân sự mà bộ luật ấy lại gây tổn thương cho đời sống hôn nhân và gia đình. Do sự thế tục hóa, mối gắn bó với Thiên Chúa đã bị giảm xuống một cách mạnh mẽ tại nhiều nơi trên trái đất, và Đức Tin không còn là di sản chung mang tính cộng đồng nữa.

8.Nhiều em bé sẽ bị sinh ra ngoài hôn nhân, đặc biệt là trong một số quốc gia, và nhiều em bé trong những quốc gia ấy sẽ lớn lên với chỉ một bên hoặc bố hoặc mẹ, hay trong một hoàn cảnh gia đình đã được phát triển hoặc được tái cơ cấu. Con số những vụ ly dị đang lớn lên, và không hiếm khi những quyết định  chỉ được xác định bởi những yếu tố kinh tế. Các em bé thường xuyên trở thành đối tượng tranh cãi của cha mẹ chúng, và rồi những đứa con ấy lại trở thành nạn nhân thực sự của những vụ bất hòa trong gia đình. Những người cha thường vắng mặt, không chỉ vì những lý do kinh tế, mà còn thiếu vắng ngay tại nơi mà ở đó, những người cha cần phải đảm nhận một cách rõ ràng trách nhiệm đối với con cái và gia đình. Sự nhìn nhận về phẩm giá của người phụ nữ vẫn còn phải được phổ biến và thúc đẩy. Trong thực tế, người phụ nữ thời nay vẫn nhiều khi bị đặt trong tình trạng phân biệt đối xử, và hồng ân của việc làm mẹ lại cũng thường xuyên dẫn tới những bất lợi hơn là được coi trọng. Chúng ta không được phép quên những bạo lực nhắm vào giới phụ nữ đang ngày một tăng, tiếc rằng đôi khi nó lại xảy ra ngay trong gia đình, và thật tồi tệ với việc cắt xén bộ phận sinh dục vẫn còn đang được phổ biến trong một số nền văn hóa. Sau cùng, sự bóc lột tình dục trẻ em đang là một thực tế xấu xa và đồi bại nhất của xã hội ngày nay. Ngay cả những cộng đồng bị gây thiệt hại bởi bạo lực do chiến tranh, bởi chủ nghĩa khủng bố, hay bởi các tổ chức tội phạm, cũng đều nhận thấy rằng, tình trạng của các gia đình đang ngày một xấu đi. Trước hết là trong những đô thị lớn và những vùng ngoại ô của các đô thị này, hiện tượng của cái được gọi là trẻ em đường phố đang phát triển. Di dân là một đặc điểm tiếp theo của thời đại, và phải được hiểu cũng như phải được giải quyết đối với gia đình trước tất cả những gánh nặng của họ.

Tầm quan trọng của đời sống tình cảm

9.Trong bối cảnh xã hội đã được vạch ra, tại nhiều vùng miền khác nhau trên thế giới, nhu cầu nơi cá nhân đang chứng tỏ việc phải quan tâm nhiều hơn nữa đến nhân vị của mình, hầu khám phá ra điều nội tại, để sống trong sự hòa điệu tốt hơn với những cảm nhận và với những cảm xúc riêng, hầu tìm kiếm những người bạn đời có đầy đủ các phẩm chất tốt; sự cố gắng đi tới một cách hợp pháp này có thể dẫn tới niềm mong ước muốn kiến tạo nên các mối quan hệ mà chúng đặt nền móng trên sự trao hiến cũng như trên sự phát triển lẫn nhau một cách đầy trách nhiệm, liên đới, giống như bất cứ một gia đình nào. Nhưng mối nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân và cơn cám dỗ muốn sống theo lối ích kỷ lại rất lớn. Giáo hội được đòi hỏi phải giúp đỡ các đôi vợ chồng trong sự chín muồi về xúc cảm cũng như trong sự phát triển mối tương quan gắn bó thuộc về tình cảm của họ, bằng cách thúc đẩy việc đối thoại, thúc đẩy các phẩm hạnh cũng như thúc đẩy niềm tín thác vào Tình Yêu nhân hậu của Thiên Chúa. Sự tham gia trọn vẹn mà một cuộc hôn nhân Ki-tô giáo được mời gọi, có thể trở nên một phương tiện mạnh mẽ nhằm chống lại những cơn cám dỗ của một chủ nghĩa cá nhân ích kỷ.

10.Trong thế giới ngày nay không thiếu những khuynh hướng văn hóa mà chúng đang tuyên truyền cho một đời sống tình cảm không giới hạn, trong đó tất cả mọi khía cạnh đều nên được xem xét kỹ càng. Và như thế, đó là vấn nạn về sự đổ vỡ của giác cảm mà nó đang xô đẩy bất cứ con người nào. Đang có một đời sống tình cảm tự kỷ, không bền vững và dễ thay đổi mà nó không luôn giúp con người đạt tới sự chín muồi. Sự sợ hãi đang kích thích một sự phát tán nào đó của sự khiêu dâm và của việc thương mại hóa cơ thể, được tạo điều kiện thông qua việc lạm dụng Internet. Điều này dẫn tới tình trạng đáng phàn nàn của những người bị cưỡng ép phải hoạt động mại dâm. Trong bối cảnh chung này, đôi khi các cặp vợ chồng lại thiếu kiên quyết, do dự, ngập ngừng và không cố gắng tìm ra những cách thế mà qua đó họ có thể phát triển. Nhiều cặp vợ chồng nghiêng theo chiều hướng đó, để ở lì mãi trong những giai đoạn trước kia, trong cuộc sống tình cảm và tính dục của mình. Cuộc khủng hoảng của các mối quan hệ vợ chồng sẽ làm mất ổn định trong gia đình, và có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng đối với những người đã trưởng thành, đối với trẻ em và đối với toàn thể xã hội, thông qua những rạn nứt và những ly tán, bằng cách làm cho các cá nhân cũng như các mối quan hệ xã hội trở nên yếu nhược. Ngay cả sự suy giảm về nhân khẩu học, bị gây ra bởi một tâm tính thù địch với sự sinh sản, và một chính sách đẩy mạnh sự ngừa thai trên toàn thế giới, cũng không chỉ dẫn tới một tình trạng mà trong đó việc thay đổi các thế hệ không còn được đảm bảo nữa, nhưng với thời gian, còn dẫn tới nguy cơ xảy ra một cuộc bần cùng hóa về mặt kinh tế, cũng như dẫn tới việc đánh mất đi niềm tin tưởng vào tương lai. Sự phát triển của công nghệ sinh học cũng đã gây ra một tác động mạnh mẽ đến tỉ lệ sinh sản.

Những thách đố trong việc mục vụ

11.Trong mối liên hệ này, Giáo hội cảm thấy cần thiết phải nói lên một lời của chân lý và của niềm hy vọng. Chúng ta nên khởi đi từ niềm xác tín rằng, con người đến từ Thiên Chúa, và do đó dẫn tới một suy tư, mà nó tái đặt ra những vấn nạn lớn liên quan đến tầm quan trọng của kiếp nhân sinh, có thể rơi xuống trên một mảnh đất màu mỡ, khi chứng kiến những khát vọng sâu xa nhất của nhân loại. Giá trị to lớn của đời sống hôn nhân và gia đình Ki-tô giáo tương ứng với bất cứ sự tìm kiếm nào mà nó chạy băng qua bất kỳ cuộc hiện sinh nhân loại nào, ngay cả trong một thời đại bị đánh dấu bởi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa khoái lạc. Người ta phải đón nhận con người trong cuộc hiện sinh cụ thể của họ, phải giúp đỡ họ trong cuộc kiếm tìm của họ, phải khích lệ họ trong sự khát khao của họ đối với Thiên Chúa, và trong niềm mong mỏi của họ muốn được tham dự một cách trọn vẹn vào trong Giáo hội, cũng như những ai đã trải qua một kinh nghiệm về sự tan vỡ, hay đã lâm vào những tình huống tuyệt vọng. Sứ điệp Ki-tô giáo vẫn luôn chứa đựng thực tại và sự năng động của lòng khoan hậu cũng như của chân lý, mà trong Chúa Ki-tô, chúng là một và là chính Ngài.

PHẦN II

NHÌN LÊN CHÚA KI-TÔ: TIN MỪNG GIA ĐÌNH

Nhìn lên Chúa Giê-su và khoa sư phạm của Thiên Chúa trong thánh sử

12.“Vì khi chúng ta thực sự muốn đối chiếu những bước đi của chúng ta trên địa bàn của những thách đố hiện tại, cần phải có một điều kiện mang tính quyết định rằng, dán chặt ánh nhìn vào Chúa Giê-su Ki-tô, dừng lại trong sự chiêm nghiệm và tôn thờ thánh nhan Ngài (…). Vì mỗi lần, khi chúng ta trở lại với nguồn cội của sự kinh nghiệm về Chúa Ki-tô, chúng ta sẽ mở con tim mình ra cho những con đường mới và những khả năng mới không được đoán trước“ (ĐTC Phan-xi-cô, Diễn Văn ngày 04.10.2014). Chúa Giê-su đã hướng cái nhìn với tình yêu và sự trìu mến của Ngài trên những người nam và những người nữ mà họ gặp gỡ Ngài, và Ngài đã đồng hành với những bước đi của họ bằng chân lý, bằng lòng khoan dung và bằng tình thương xót, khi Ngài công bố những đòi hỏi mà Triều Đại Thiên Chúa đặt ra cho chúng ta.

13.Vì trật tự của các thụ tạo được xác định bởi sự quy hướng về Chúa Ki-tô, nên chúng ta phải – không được phân tách chúng khỏi nhau – biện phân những cấp độ khác biệt mà nhờ đó, Thiên Chúa giới thiệu cho nhân loại biết về ơn hiệp thông với Ngài. Theo kế hoạch giáo dục của Thiên Chúa dành cho nhân loại, trật tự của các thụ tạo ấy phát triển theo từng bước để đạt tới ơn cứu độ. Khoa sư phạm của Thiên Chúa đối với nhân loại hàm chứa trong việc này: trật tự của các thụ tạo phát triển từng bước trong trật tự của ơn cứu độ. Và như thế, điều mới mẻ nơi Bí Tích Hôn Phối Ki-tô giáo cũng phải được hiểu trong sự liên tục của hôn nhân tự nhiên kể từ lúc bắt đầu lịch sử nhân loại. Và vì vậy, ở đây người ta nhận ra nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa kể cả trong thế giới thụ tạo lẫn trong lối sống Ki-tô giáo. Trong thế giới thụ tạo: Vì tất cả đều được tác thành thông qua Chúa Ki-tô cũng như trong Chúa Ki-tô (xc. Col 1, 16), do đó các Ki-tô hữu nên „khám phá ra những hạt giống của Lời, với niềm vui và sự tôn kính (…), mà những hạt giống ấy được cất giấu trong thế giới thụ tạo. Nhưng họ cũng nên nhận ra quá trình biến đổi sâu xa mà nó đang diễn ra trong các dân tộc ấy“ (AG. 11). Trong lối sống Ki-tô giáo: trong mối quan hệ này, người Ki-tô hữu được đặt vào trong Giáo hội nhờ Bí Tích Thanh Tẩy, được thúc đẩy bởi Giáo hội tại gia, tức gia đình của mình, người Ki-tô hữu bước vào trong một „tiến trình năng động qua từng cấp độ tương ứng với sự thu nạp đang triển nở của ân sủng Thiên Chúa“ (Familiaris Consortio, 9), thông qua việc thường xuyên quay về lại với Đức Ái, mà Đức Ái ấy giải thoát khỏi tội lỗi cũng như ban tặng sự sống dồi dào.

14.Chính Chúa Giê-su đã xác định mối liên kết gắn bó không thể chia tách giữa người chồng và người vợ, khi Ngài nói về kế hoạch sáng tạo dành cho đời sống hôn nhân, và do đó Ngài lập luận rằng: „Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu“ (Mt. 19, 8). Sự bất khả phân ly của hôn nhân [„Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly“ (Mt. 19, 6)] không được hiểu như là một chiếc „ách“ được đặt lên con người, nhưng như một ân sủng đối với những người được liên kết trong hôn nhân. Bằng phương cách ấy, Chúa Giê-su đã chỉ cho thấy sự tốt lành của Thiên Chúa vẫn luôn đồng hành với con đường của nhân loại, chữa lành những con tim chai cứng, biến đổi chúng nhờ vào ân sủng của Ngài, cũng như định hướng cho chúng trên con đường thập giá, và trên căn nguyên của chúng như thế nào. Có thể thấy tấm gương của Chúa Giê-su một cách rõ ràng từ trong các sách Tin Mừng, Ngài là mẫu gương của Giáo hội. Chính Chúa Giê-su đã chấp nhận một gia đình, Ngài đã thực hiện dấu chỉ đầu tiên của mình tại tiệc cưới Ca-na, Ngài đã công bố sứ điệp về tầm quan trọng của hôn nhân như là sự thành toàn của công cuộc mạc khải, mà nó phục hồi nguyên trạng kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (Mt. 19, 3). Nhưng đồng thời, Chúa Giê-su đã thực hành giáo huấn được công bố, và do đó đã mạc khải ý nghĩa đích thực của lòng khoan hậu. Điều đó có thể thấy một cách rõ ràng từ những cuộc gặp gỡ của Ngài với những người Samaria (Ga. 4, 1-30), và với người phụ nữ ngoại tình (Ga. 8, 1-11), qua đó, bằng một tình yêu đầy tràn đối với con người tội lỗi, Chúa Giê-su đã dẫn họ tới với sự hoán cải và sự sám hối như là điều kiện đối với ơn tha thứ [„Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa!“].

Gia đình trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa

15.Những lời về đời sống vĩnh cửu mà Chúa Giê-su đã để lại cho các môn đệ của Ngài, khép lại giáo huấn về đời sống hôn nhân và gia đình. Giáo huấn ấy của Chúa Giê-su làm cho chúng ta nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa trong ba giai đoạn có tính nền tảng. Ngay từ sự khởi đầu của kế hoạch này, gia đình nguyên thủy đã xuất hiện, và với gia đình ấy, Thiên Chúa – Đầng Sáng Tạo - đã an bài để cuộc hôn nhân nguyên thủy giữa A-đam và E-và trở nên nền tảng vững chắc cho gia đình. Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người không chỉ với tính cách là nam hay là nữ (St 1, 27), nhưng Ngài cũng đã chúc phúc cho cả hai, để họ trở nên phong nhiêu và tăng trưởng (St 1, 28). Vì thế, „người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt“ (St 2, 24). Sự hiệp nhất này đã bị gây thương tổn bợi tội lỗi, và dẫn tới hình thức mang tính lịch sử của hôn nhân trong Dân Chúa mà ông Mô-sê đã trao cho họ khả năng được phép ly dị (xc. Đnl 24, 1tt.). Điều này vẫn còn là cách thức thực hành phổ biến trong thời Chúa Giê-su. Nhưng với cuộc giáng thế của Chúa Ki-tô, cũng như cuộc giao hòa với thế gian tội lỗi mà Ngài đã thực hiện thông qua cái chết cứu độ của Ngài, triều đại của Mô-sê đã chấm dứt.

16.Thiên Chúa, Đấng đã giao hòa tất cả trong chính Ngài, đã làm cho hôn nhân và gia đình trở về lại với thể thức nguyên thủy của chúng (xc. Mc 10, 1-12). Chúa Giê-su đã giải thoát hôn nhân và gia đình (xc. Eph 5, 21-32) và tái phục hồi chúng theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, theo mầu nhiệm mà bất cứ Tình Yêu nào cũng bắt nguồn từ đó. Khế ước hôn nhân mà nó được an bài trong công cuộc sáng tạo cũng như được mạc khải trong thánh sử, tiếp nhận sự mạc khải trọn vẹn về ý nghĩa của nó trong Chúa Ki-tô và Giáo hội của Người. Nhờ Chúa Ki-tô, hôn nhân và gia đình tiếp nhận ân sủng không thể cải biến để làm chứng cho Tình Yêu của Thiên Chúa, cũng như để sống với tư cách là sự hiệp nhất. Tin Mừng Gia Đình là một thành tố trong lịch sử thế giới, kể từ lúc con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa (xc. St 1, 26-27) tới sự thành toàn của mầu nhiệm hiệp thông trong Chúa Ki-tô vào lúc cùng tận của thời gian với tiệc cưới của Chiên Con (xc. Kh. 19, 9; ĐTC Gio-an Phao-lô II, Bài Giáo Lý về Tình Yêu nhân loại).

Gia đình trong các văn bản của Giáo Hội

17.“Trong suốt nhiều thế kỷ, Giáo hội đã không bao giờ để cho Giáo huấn thường xuyên về hôn nhân và gia đình bị khuyết thiếu. Một trong những hình thức diễn tả cao nhất của giáo huấn này đã được trình bày trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) của Công Đồng Vatican II. Hiến Chế này đã dành hẳn một chương để khích lệ phẩm giá của hôn nhân và gia đình (xc. GS, 47-52). Ở đây, hôn nhân được định nghĩa như là mối hiệp thông của cuộc sống và Tình Yêu (xc GS, 48), cùng lúc đó, Tình Yêu được đặt trong trung tâm của gia đình, và đồng thời chân lý của Tình Yêu này đã được biểu lộ khi chứng kiến những hình thức khác nhau của khuynh hướng đơn giản hóa sự vật bằng quan điểm cho rằng, tổng thể là phép cộng đơn thuần của từng thành phần, như chúng đang tồn tại trong nền văn hóa ngày nay. „Tình Yêu đích thực giữa người vợ và người chồng“ (GS, 49) bao gồm sự trao hiến chính bản thân mình cho nhau, và theo kế hoạch của Thiên Chúa, cũng bao hàm chiều kích và sự hưng phấn thuộc về tính dục, cũng như thống nhất chúng (xc. GS, 48-49). Vượt xa vấn đề đó, Hiến Chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) ở số 48 đã nhấn mạnh tới sự bén rễ sâu của đời sống hôn nhân trong Chúa Ki-tô: Chúa Ki-tô „gặp gỡ đôi vợ chồng Ki-tô giáo trong Bí Tích Hôn Phối“, và lưu lại bên họ. Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người, Ngài đã tiếp nhận tình yêu nhân loại, thanh tẩy tình yêu ấy và đưa nó đến với sự viên mãn, và với Thần Khí của Ngài, ban cho cặp vợ chồng khả năng để sống trong tình yêu đã được Ngài làm cho nên viên mãn, bằng cách Ngài băng qua toàn bộ cuộc sống với Đức Tin, niềm Hy Vọng và Tình Yêu của họ. Với phương cách ấy, đôi vợ chồng có thể được coi là đã được thánh hiến và sẽ kiến tạo nên thân mình Chúa Ki-tô nhờ vào một đặc sủng riêng, bằng cách họ hình thành nên một Giáo hội tại gia (xc. LG, 11). Dó đó, Giáo hội nhìn vào gia đình Ki-tô giáo, tức gia đình đang biểu lộ chính mình trong một cách thế hoàn toàn đặc biệt, để hiểu về mầu nhiệm riêng của mình trong sự viên mãn“ (Instrumentum Laboris, 4).

18.“Cùng với cách nhìn của Công Đồng Vatican II, quyền giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng đã đào sâu hơn nữa giáo huấn về đời sống hôn nhân và gia đình. Đặc biệt là Đức Phao-lô VI, với Thông Điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người), đã đề cao mối liên kết nội tại giữa tình yêu hôn nhân và việc tiếp tục trao đi sự sống trong ánh sáng. Đức Tân Hiển Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, qua các bài Giáo Lý của Ngài về Tình Yêu Nhân Loại, qua bức thư gửi tới các gia đình (Gratissimam Sane), và trước hết, qua Tông Huấn Familiaris Consortio (Mối quan hệ hỗ tương trong gia đình), đã gửi đến gia đình một mối quan tâm đặc biệt. Trong các văn kiện ấy, Đức Gio-an Phao-lô II đã mô tả gia đình như là „con đường của Giáo hội“, và đã trình bày một cái nhìn tổng quan về ơn gọi của người chồng và người vợ trước tình yêu. Đồng thời Ngài cũng đã đưa ra những đường lối có tính nền tảng đối với công tác mục vụ gia đình cũng như đối với sự hiện diện của gia đình trong cộng đồng xã hội. Trước hết, trong mối liên hệ với tình yêu hôn nhân (xc. FC, 13), Ngài đã phác họa ra những cách thế mà trong đó đôi vợ chồng đón nhận ân sủng của Thần Khí Chúa Ki-tô trong tình yêu hỗ tương của mình, cũng như sống ơn gọi nên thánh của mình“ (Instrumentum Laboris, 5).

19. „Trong Thông Điệp Deus Caritas est (Thiên Chúa Là Tình yêu), Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã tái sáng tỏ hóa để tài về chân lý của tình yêu giữa người chồng và người vợ, mà đề tài đó chỉ hoàn toàn trở nên rõ ràng trong ánh sáng của tình yêu Chúa Ki-tô chịu đóng đinh (Deus Caritas est, 2). Đức nguyên Giáo Hoàng đã nhấn mạnh rằng: „Cuộc hôn nhân được đặt căn cứ trên một tình yêu duy nhất và triệt để, sẽ trở nên sự diễn tả về mối tương quan của Thiên Chúa đối với dân Người và ngược lại: cách thức, như Thiên Chúa yêu thương, sẽ trở thành thước đo cho tình yêu nhân loại“ (Deus Caritas est, 11). Liên quan tới điều đó, Thông Điệp Caritas in Veritate (Đức Ái trong Chân Lý) đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của tình yêu như là nguyên lý của cuộc sống trong cộng đồng xã hội (xc. Caritas in Veritate, 44), nơi mà người ta học biết kinh nghiệm về phúc lợi cộng đồng“ (Instrumentum Laboris, 6).

20.“Trong Thông Điệp Lumen fidei (Ánh Sáng Đức Tin), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã làm sáng tỏ mối tương quan của gia đình với Đức Tin, và Ngài viết: „Gặp gỡ Chúa Ki-tô và để cho mình được khích lệ bởi tình yêu của Ngài, cũng như để cho mình tiếp tục được dẫn đưa tới đường chân trời của cuộc sống, và trao cho nó một niềm hy vọng vững chắc mà niềm hy vọng đó không hề gây ra sự lụi tàn. Đức Tin không phải là nơi trú ẩn dành cho những người thiếu sự can đảm, hơn nữa, Đức Tin làm cho cuộc sống được mở rộng. Đức Tin cho phép khám phá ra một ơn gọi lớn lao, tức ơn gọi để yêu thương, và Đức Tin bảo đảm rằng, tình yêu ấy đáng tin cậy và xứng đáng để tự hiến bản thân mình cho nó, vì nền tảng của nó được đặt trên sự trung tín với Thiên Chúa, nó mạnh mẽ hơn tất cả mọi yếu hèn của chúng ta“ (Lumen Fidei, 53) (Instrumentum Laboris, 7).

Sự bất khả phân ly của hôn nhân và niềm vui của cuộc sống chung

21.Ân sủng hỗ tương được thể hiện trong Bí Tích Hôn Phối, có nguồn cội của nó trong ân sủng của Bí Tích Thanh Tẩy, mà Bí Tích này đặt nền tảng cho giao ước giữa Chúa Ki-tô và Giáo hội của Người. Trong việc đón nhận nhau và với ân sủng của Chúa Ki-tô, đôi vợ chồng đoan hứa sẽ trao hiến trọn vẹn cho nhau, chung thủy và mở ra cho cuộc sống. Họ thừa nhận những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban tặng cho họ như là những thành tố cấu thành nên đời sống hôn nhân, và nhân danh Giáo hội, nhận lấy trách nhiệm của mình đối với nhau một cách nghiêm túc. Trong Đức Tin, việc đón nhận những điều tốt lành của hôn nhân như là những trách vụ, sẽ trở nên có thể. Những trách vụ ấy có thể được thực hiện tốt hơn nhờ vào ân sủng của các Bí Tích. Thiên Chúa thánh hóa tình yêu của đôi vợ chồng và chứng thực về sự bất khả phân ly của họ, bằng cách giúp họ sống chung thủy với nhau cũng như trao hiến bản thân cho nhau, và mở ra với cuộc sống. Vì thế, Giáo hội nhìn đôi vợ chồng như là con tim của toàn gia đình, và về phía mình, gia đình ấy hướng cái nhìn lên Chúa Giê-su.

22.Trong viễn tượng ấy, Công Đồng Vatican II đã thực hiện cho mình một học thuyết riêng mang tính Tông truyền, theo đó, toàn thể thế giới thụ tạo đều được hình dung trong Chúa Ki-tô và quy hướng về Người; bằng tất cả sự kính trọng của mình, Công Đồng đã nói về hôn nhân tự nhiên cũng như về những yếu tố đầy giá trị mà chúng có sẵn trong các tôn giáo khác, bất chấp những ranh giới cũng như những hạn chế của các tôn giáo ấy (xc. Nostra Aetate, 2). Sự hiện hữu của „semina Verbi“ (Hạt Giống Lời) trong các nền văn hóa (xc Ad Gentes, 11) cũng có thể được ứng dụng từng phần đối với đời sống hôn nhân và gia đình trong nhiều nền văn hóa không phải là Ki-tô giáo. Như thế, cũng có những yếu tố hợp pháp nơi hôn nhân ngoài Ki-tô giáo – cho tới bao lâu chúng vẫn còn đặt nền tảng trên mối tương quan lâu bền và chân thực giữa người chồng và người vợ -, tức những yếu tố mà trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta đều coi như là được định hướng nhắm vào hôn nhân. Với cái nhìn của mình về sự khôn ngoan nhân loại của các dân tộc cũng như của các nền văn hóa, Giáo hội cũng nhìn nhận những gia đình ấy như là đơn vị nền tảng vừa cần thiết và cũng vừa phong phú trong cuộc sống chung của con người.

Chân lý và vẻ đẹp của gia đình cũng như lòng khoan hậu đối với những gia đình bị tổn thương và yếu nhược

23. Giáo hội nhìn về các gia đình đang sống trong sự trung tín với giáo huấn của Tin Mừng, bằng một niềm vui lớn lao và một niềm an ủi sâu xa. Giáo hội cám ơn những gia đình ấy về chứng tá của họ, cũng như khuyến khích họ tiếp tục việc làm chứng đó. Nhờ vào những gia đình ấy, vẻ đẹp của hôn nhân bất khả xâm phạm cũng như sự chung thủy luôn bền vững của họ đã trở nên đáng tin cậy. Trong gia đình mà người ta có thể gọi là „Giáo hội tại gia“ (LG, 11), kinh nghiệm đầu tiên mang tính Ki-tô giáo của sự hiệp thông giữa những con người sẽ dần lớn lên, mà trong kinh nghiệm đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh sẽ bừng sáng thông qua những ân sủng. „Ở đây người ta học biết sự kiên định và niềm vui bên công việc, học biết về tình yêu huynh đệ, học biết sự bao dung của những lần tha thứ không ngừng lập đi lập lại, và tiên vàn, học biết sự phụng thờ Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong sự hiến trao cuộc sống „ (Sách GLHTCG, số 1657). Thánh Gia Na-za-reth là một mẫu gương tuyệt vời của các gia đình, nhờ vào ngôi trường gia đình Thánh Gia, chúng ta „hiểu được lý do tại sao chúng ta phải giữ một sự kỷ luật về tinh thần khi chúng ta đi theo giáo huấn của Tin Mừng Chúa Giê-su, cũng như muốn trở nên những người môn đệ của Chúa Ki-tô“ (ĐTC Phao-lô VI, Diễn Văn tại Na-za-reth ngày 05.01.1964). Tin Mừng về gia đình cũng chăm sóc từng hạt giống mà chúng chưa đạt tới được sự sinh trưởng, và phải chăm sóc từng ngọn cây đã bị héo khô, cũng như không được phép xao nhãng hay bỏ mặc chúng.

24.Mặc dù Giáo hội nhận thức rằng, không có một khế ước hôn nhân nào khác đối với những người đã lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, ngoài khế ước mang tính Bí Tích, và bất cứ sự nứt rạn nào của Bí Tích này cũng đều trái ngược với chính Thánh Ý của Thiên Chúa, nhưng với tư cách là nữ giáo viên đáng tin cậy và cũng là một người Mẹ đầy chu đáo, Giáo hội cũng biết về những điều yếu đuối nơi nhiều con cái của mình, mà những người con ấy đang thực hiện cuộc hành trình Đức Tin một cách nặng nề. „Vì thế, để không giảm nhẹ giá trị của Tin Mừng vào trong một ý tưởng được vạch sẵn, người ta phải đồng hành với những mức độ yếu đuối có thể của những con người đang được tái thiết mỗi ngày, với lòng khoan hậu và sự kiên nhẫn (…). Một bước đi nhỏ trong giữa những giới hạn lớn lao của con người lại có thể làm cho Thiên Chúa hài lòng hơn là một cuộc sống cụ thể theo dáng bên ngoài của một con người mà họ trải qua ngày sống của mình nhưng không hề đụng chạm tới những khó khăn đáng kể nào. Tất cả mọi người đều phải được động chạm tới bởi niềm an ủi cũng như bởi sự khích lệ từ tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa, Đấng tác động một cách đầy nhiệm màu trong mỗi con người, vượt quá những khiếm khuyết hay những thiếu sót của họ“ (Evangelii Gaudium, 44).

25.Theo cách tiếp cận mục vụ của mình, Giáo hội có sứ mạng phải chỉ ra cho những người mà họ đã chỉ được lập gia đình theo tính cách dân sự, hay đã ly dị và đã tái hôn, hoặc chỉ sống chung với nhau một cách đơn thuần, về khoa sư phạm của ân sủng Thiên Chúa trong cuộc sống của họ, cũng như giúp họ đạt tới được sự thành toàn trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đi theo ánh sáng của Chúa Ki-tô, mà ánh sáng của Người đang chiếu giãi trên bất cứ con người nào (xc. Ga. 1, 9; Gaudium et Spes, 22), với trọn tình yêu, Giáo hội hướng vết bất cứ ai đang tham dự vào đời sống của Giáo hội bằng một cách thế vẫn còn dang dở. Giáo hội nhìn nhận rằng, ân sủng của Thiên Chúa cũng vẫn đang hoạt động trong cuộc sống của họ, và khuyến khích họ hãy thực hiện những điều tốt lành hầu quan tâm chăm sóc cho nhau với trọn tình yêu, cũng như thi hành nhiệm vụ của họ đối với cộng đồng xã hội mà họ đang sống và làm việc trong đó.

26.Với sự lo âu, Giáo hội hướng cái nhìn về sự bất trung của nhiều người trẻ đối với lời thề ước hôn phối của họ. Giáo hội đau khổ biết chừng nào trước việc nhiều tín hữu nhanh chóng hủy bỏ khế ước đã được ký kết và chuyển sang thực hiện một khế ước mới. Các tín hữu vẫn thuộc về Giáo hội ấy, cần tới một sự chăm sóc mục vụ đầy khoan hậu và khích lệ, hầu giúp họ có được sự cân bằng để biện phân những tình huống đó. Những tín hữu còn trẻ nên được khích lệ để không  ngập ngừng trước sự phong phú mà Bí Tích Hôn Phối mang đến cho sự nhận thức của họ về tình yêu, được tăng cường bởi ơn trợ giúp của ân sủng Chúa Ki-tô cũng như khả năng có thể tham dự một cách hoàn toàn vào với đời sống Giáo hội.

27.Trong ý nghĩa ấy, công cuộc mục vụ dành cho các gia đình chứa đựng một chiều kích mới, bằng cách dấn thân cho thực tại của hôn nhân dân sự giữa người chồng và người vợ, dấn thân cho đời sống hôn nhân theo những phong tục tập quán xưa cũ, và trước hết là với sự biện phân thỏa đáng – cũng như dấn thân cho các cặp vợ chồng sống chung nhưng không thành hôn. Nếu một sự kết hợp thông qua một khế ước công khai và rõ ràng đòi hỏi tính bền vững một cách hiển nhiên, nếu sự kết hợp ấy được in dấu bởi mối thiện cảm sâu xa, bởi trách nhiệm đối với con cái, bởi khả năng tồn tại trước những thử thách, thì điều đó có thể trở thành lý do để đồng hành với họ trên con đường dẫn tới Bí Tích Hôn Phối. Nhưng rất thường khi sự quyết định cho cuộc sống chung sẽ bị thất bại nếu như không có bất cứ một kế hoạch nào cho một cuộc lập gia đình trong tương lại, hay không có bất cứ một dự tính nào cho một cuộc kết hợp có tính định chế.

28.Trong sự hòa hợp với lòng thương xót của Chúa Ki-tô, Giáo hội phải đồng hành một cách ân cần và đầy chu đáo đối với những người con yếu đuối nhất của mình, tức những người đang phải đau khổ vì tình yêu bị gây tổn thương và bị lạc mất, và phải trao cho họ sự vững tin cũng như niềm hy vọng, giống như ánh sáng của một ngọn hải đăng trong một hải cảng, hay của một bó đuốc được mang đến cho con người để soi sáng cho những ai đã bị lạc hướng hay đang quay quắt trong một trận cuồng phong. Trong việc ý thức rằng, lòng khoan hậu to lớn nhất hàm chứa trong việc nói về sự thật với tình yêu thương, điều đó cần thiết đối với chúng ta hơn là sự thương hại. Tình yêu khoan hậu cuốn hút và làm cho nên hiệp nhất thế nào thì nó cũng biến đổi và nâng cao như thế. Tình yêu ấy mời gọi hoán cải. Và như thế chúng ta cũng hiểu được thái độ của Chúa Giê-su, Đấng đã không kết án người phụ nữ ngoại tình, nhưng đã khích lệ bà để bà đừng phạm tội nữa (xc. Ga. 8, 1-11). 

PHẦN III
SỰ QUAN TÂM: NHỮNG VIỄN TƯỢNG MỤC VỤ

Công bố Tin Mừng về gia đình hôm nay trong các bối cảnh khác nhau của cuộc sống

29.Cuộc trao đổi của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã bận tâm tới một số mong muốn khẩn thiết về mục vụ mà nó phải được trao phó riêng cho các Giáo hội Đông Phuơng trong sự hiệp thông được cụ thể hóa „cum Petro et sub Petro“ (cùng với Phê-rô và trong Phê-rô). Việc công bố Tin Mừng về gia đình thể hiện tính cấp bách đối với việc tái rao giảng Tin Mừng. Giáo hội được kêu gọi thực thi việc tái rao giảng Tin Mừng ấy với sự trìu mến của một người Mẹ, và với tính cách rõ ràng của một nữ giáo viên (xc. Eph 4, 15), trong sự trung tín với Kenosis (sự tự hủy) đầy khoan hậu của Chúa Ki-tô. Chân lý tiếp nhận xác thể trong sự yếu đuối của con người, không phải để kết án nó, nhưng để cứu độ nó (xc. Ga 3, 16-17).

30.Việc rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm của toàn dân Chúa, và của bất cứ ai, theo nhiệm vụ và đoàn sủng riêng. Không có chứng tá vui mừng của các cặp vợ chồng và của các gia đình, tức của các Giáo hội tại gia, thì việc loan báo Tin Mừng - ngay cả khi nó được thực hiện một cách hợp lý – cũng vẫn sẽ có nguy cơ ở lỳ mãi trong sự mơ hồ, hay có nguy cơ rơi xuống đại dương của những lời nói mà nó là dấu hiệu đặc trưng của cộng đồng chúng ta (xc. Novo Millennio Ineunte, 50). Các Nghị Phụ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, thông qua hiệu năng của ân sủng nơi Bí Tích Hôn Phối, các gia đình Ki-tô giáo được kêu gọi để trở nên chính chủ thể năng động của công cuộc mục vụ chăm sóc gia đình.

31.Điều qua trọng nhất là việc nhấn mạnh đến tính ưu việt của ân sủng và những khả năng mà Chúa Thánh Thần ban tặng trong Bí Tích. Vấn đề nằm ở chỗ là, làm sao để hiểu được rằng, Tin Mừng về Gia Đình là một niềm vui mà nó „lấp đầy con tim và toàn bộ cuộc sống“, vì trong Chúa Ki-tô, chúng ta đã được giải thoát „khỏi tội lỗi, khỏi sự buồn rầu, khỏi sự trống vắng nội tâm và khỏi cảnh cô đơn“ (Evangelii Gaudium, 1). Trong ánh sáng của dụ ngôn người đi gieo giống (xc. Mt 13, 3), nhiệm vụ của chúng ta chính là việc cộng tác với hạt giống: việc còn lại là công việc của Thiên Chúa. Người ta cũng không được phép quên rằng, Giáo hội, tức người rao giảng về gia đình, chính là dấu chỉ của sự chống đối.

32.Vì thế, một cuộc trở về với sứ vụ truyền giáo cũng đang được đòi hỏi từ toàn thể Giáo hội. Người ta không được đứng lỳ ra mãi trong một việc loan báo thuần lý thuyết, mà nó bị tách rời khỏi những vấn đề thực tế của nhân loại. Không bao giờ được phép quên rằng, cuộc khủng hoảng Đức Tin đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng về hôn nhân và gia đình, và như là hệ quả, việc tiếp tục truyền giao Đức Tin từ các bậc cha mẹ sang con cái, thậm chí còn thường xuyên bị gián đoạn. Khi chứng kiến một Đức Tin mạnh mẽ, những quan điểm văn hóa mà chúng làm yếu nhược gia đình và hôn nhân, sẽ không thể chiến thắng.

33.Điều ngược lại cũng liên quan đến cả cách nói, để chúng thực sự đạt tới được sức mạnh của ý nghĩa. Việc loan báo Tin Mừng phải được thực hiện làm sao để người ta có thể hiểu được rằng, Tin Mừng về gia đình chính là câu trả lời cho những trông chờ sâu kín nhất của con người: trên phẩm giá của họ cũng như trong việc hiện thực hóa các mối quan hệ hỗ tương, trong sự hiệp thông và trong sự phong nhiêu. Không đơn thuần chỉ là việc đưa ra một khuôn mẫu có tính chuẩn mực, nhưng còn là việc giới thiệu các giá trị mà chúng đáp lại sự khát mong tương ứng về những điều vừa nêu; đây là một sự khát mong mà trong thời đại hôm nay người ta đang bắt gặp trong chính những quốc gia đã bị tục hóa nhất.

34.Lời Chúa là nguồn mạch của đời sống cũng như của linh đạo gia đình. Toàn bộ công cuộc mục vụ gia đình sẽ được tạo hình từ bên trong và phải cho phép các thành viên của Giáo hội tại gia được phát triển nhờ vào việc đọc Lời Chúa theo cách thức chiêm ngưỡng, và theo cách của Giáo hội. Lời Chúa không chỉ là Tin Mừng đối với cuộc sống riêng tư của con người, nhưng cũng còn là một tiêu chuẩn của sự phán đoán, cũng như là ánh sáng giúp phân định những thách đố khác nhau, mà với chúng, các cặp vợ chồng và các gia đình đang phải bận tâm.

35. Đồng thời, nhiều Nghị Phụ đã nhấn mạnh đến một sự tiếp cận tích cực trước sự phong phú của những kinh nghiệm tôn giáo khác nhau mà không hề giấu giếm những khó khăn. Trong những thực tại tôn giáo khác biệt ấy, và trong sự khác biệt to lớn về văn hóa mà chúng để lại dấu ấn nơi các quốc gia, việc coi trọng trước hết là đối với những khả năng tính cực cũng như việc định giá trong ánh sáng của Tin Mừng, về những giới hạn và những khuyết phạm, là điều hợp lý.

36.Đời sống hôn nhân Ki-tô giáo là một ơn gọi mà người ta đón nhận thông qua một sự chuẩn bị hợp lý trên con đường Đức Tin, và với một khả năng đánh giá chín chắn. Đời sống ấy không chỉ được hiểu như là truyền thống văn hóa hay là một sự đòi hỏi mang tính xã hội hoặc luật pháp. Vì thế, người ta phải phát triển những con đường để đồng hành với con người và đồng hành với các cặp vợ chồng, đến độ sự dàn xếp giữa nội dung của Đức Tin với kinh nghiệm về cuộc sống sẽ được gắn kết, mà sự dàn xếp ấy sẽ giới thiệu toàn bộ sự hiệp thông của Giáo hội.

37. Sự cần thiết trong việc khôi phục một cách triệt để các thực hành mục vụ trong ánh sáng của Tin Mừng về gia đình, vẫn luôn được nhấn mạnh, hầu thắng vượt những cách nhìn theo chủ nghĩa cá nhân, mà hiện tại chúng vẫn đang còn thể hiện các đặc tính của chúng. Vì thế, cần phải kiên trì hơn nữa trước một cuộc canh tân đối với việc đào tạo các Linh Mục, Phó tế, và các Giáo Lý viên cũng như các cộng tác viên khác trong việc mục vụ, thông qua một sự liên hệ mạnh mẽ hơn nữa đối với các gia đình.

38.Cũng trong một cách thế giống như vậy, sự cần thiết của một cuộc loan báo Tin Mừng cũng phải được nhấn mạnh, mà cuộc loan báo Tin Mừng ấy công khai tố giác những lệ thuộc đối với nền văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế, mà sự ảnh hưởng một cách mãnh liệt của chúng trên cách lý luận manh tính thị trường mà nó đang ngăn cản một đời sống gia đình đích thực, cũng như đang dẫn đưa tới với những sự phân biệt đối xử, tới sự nghèo túng, tới việc bị đẩy ra bên lề cuộc sống và tới bạo lực như thế nào. Vì thế, một cuộc đối thoại và một sự cộng tác với những cấu trúc xã hội cần phải được phát triển, và nó có giá trị trong việc khuyến khích các Giáo dân cũng như hỗ trợ họ tham gia vào trong những lãnh vực thuộc văn hóa và chính trị xã hội, với tư cách là các Ki-tô hữu.

Hướng dẫn cặp uyên ương trên con đường chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân

39.Thực tại mang tính giai tầng xã hội và những thách đố mà các gia đình ngày nay đang phải đối diện, thúc đẩy một sự tham gia lớn hơn nữa cho toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu, hầu chuẩn bị cho những đôi uyên ương trước đời sống hôn nhân. Điều đó có giá trị trong việc nhắc nhớ đến tầm quan trọng của các phẩm hạnh. Trong số những phẩm hạnh đó, sự trinh bạch tỏ ra như là điều kiện tiên quyết đầy giá trị đối với một sự phát triển đích thực của tình yêu giữa những con người. Với cái nhìn về sự cần thiết ấy, các Nghị Phụ đã tán thành về việc đưa ra lời kêu gọi hãy liên kết với toàn thể cồng đồng một cách mạnh mẽ hơn nữa và hãy ưu tiên cho việc làm chứng của chính các gia đình. Hơn nữa, sự chuẩn bị cho đời sống hôn nhân nên được bén rễ trên con đường tiến tới việc gia nhập Ki-tô giáo, trong đó, mối liên hệ giữa đời sống hôn nhân và Bí Tích Thánh Tẩy cũng như các Bí Tích khác được nhấn mạnh. Đồng thời, sự cần thiết của những khóa học đặc biệt nhằm chuẩn bị cho sự kết hôn đang chờ để được hoàn tất, cũng phải được nhấn mạnh, mà những khóa học ấy tạo điều kiện để có được một kinh nghiệm thực sự về việc tham dự vào với đời sống Giáo hội, cũng như đào sâu hơn nữa các khía cạnh khác biệt của đời sống gia đình.

Đồng hành với những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân

40.Những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân là một giai đoạn quan trọng và khó khăn, mà trong thời gian này đôi vợ chồng sẽ lớn lên trong sự ý thức về những thách đố và về ý nghĩa của đời sống hôn nhân. Điều này sẽ dẫn tới sự đòi hỏi đối với một cuộc đồng hành mục vụ, mà cuộc đồng hành này được tiếp tục thực hiện sau việc cử hành Bí Tích (vgl. Familiaris Consortio, phần III). Sự hiện diện của những cặp vợ chồng có kinh nghiệm trong công tác mục vụ này chứng tỏ cho thấy tầm quan trọng to lớn của vấn đề. Giáo xứ được hiểu như là nơi mà các cặp vợ chồng có kinh nghiệm có thể để cho những đôi vợ chồng trẻ hơn tùy nghi tham khảo ý kiến, có thể dưới sự giúp đỡ của những hiệp hội, của các phong trào trực thuộc Giáo hội và của những cộng đồng mới. Các cặp vợ chồng phải được khích lệ để có thái độ đúng đắn trong việc đón nhận con cái như là một hồng ân lớn. Đồng thời cũng có ý nghĩa trong việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của linh đạo về gia đình, nhấn mạnh đến việc cầu nguyện và việc tham dự hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa Nhật. Các đôi vợ chồng nên được khích lệ để gặp gỡ nhau thường xuyên, hầu thúc đẩy sự phát triển đời sống tinh thần cũng như tình liên đới trong những thách đố cụ thể của cuộc sống. Phụng Vụ, đời sống cầu nguyện và Bí Tích Thánh Thể đối với các gia đình, đặc biệt là vào ngày Lễ Hôn Phối, được đề cập đến như là một sự quan trọng nhằm thúc đẩy việc loan báo Tin Mừng.

Công tác mục vụ cho những người chung sống trong một cuộc hôn nhân dân sự hay không có hôn thú

41.Trong lúc Thượng Hội Đồng Giám Mục vẫn đang tiếp tục công bố và khuyến khích đời sống hôn nhân Ki-tô giáo, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng khích lệ một sự biện phân mục vụ trước những tình huống khác nhau của nhiều người không còn sống thực tại này nữa. Việc bước vào trong một cuộc đối thoại mục vụ với những con người ấy hầu có thể nhấn mạnh đến các yếu tố trong cuộc sống của họ, là điều thật quan trọng. Những yếu tố được nhắc tới ở đây có thể dẫn tới một sự mở ra lớn hơn đối với Tin Mừng về hôn nhân trong sự viên mãn của nó. Các mục tử phải nhận ra được các yếu tố mà chúng có thể thôi thúc việc loan báo Tin Mừng cũng như có thể thôi thúc sự phát triển cả về nhân bản lẫn tâm linh. Một sự nhạy cảm mới của công tác mục vụ ngày nay hàm chứa trong việc nhận thức được bất cứ yếu tố tích cực nào mà chúng có sẵn trong những cuộc hôn nhân theo dân sự, và – với sự biện phân thích đáng – trong cuộc sống chung không có hôn thú. Ngay cả khi chúng ta đề cao sứ điệp Ki-tô giáo với tất cả sự rõ ràng, thì chúng ta, qua việc giới thiệu về Giáo hội, trong tinh thần xây dựng, cũng phải chỉ ra những yếu tố trong bất cứ tình huống nào mà chúng chưa tương ứng hay không còn tương ứng với Giáo hội nữa.

42.Được chỉ cho thấy rằng, tại nhiều quốc gia, „con số những cặp đôi chung sống để ‚ad experimentum‘ (sống thử) nhưng không có việc tổ chức cưới xin, cả về phương diện Giáo hội lẫn phương diện dân sự, đang tăng lên“ (Instrumentum Laboris, 81). Nơi một số quốc gia, sự kiện ấy đang diễn ra trước hết là trong những cuộc hôn nhân truyền thống mà chúng được tán thành giữa các gia đình và thường được thực hiện trong nhiều chặng khác nhau. Trái lại, tại những quốc gia khác, con số những cặp hôn nhân, sau một cuộc chung sống lâu dài, muốn xin tổ chức một cuộc lễ cưới về phương diện Giáo hội, lại đang phát triển. Cuộc sống chung đơn giản thường được chọn lựa vì tâm lý chung là muốn chống lại những thể chế cũng như những cam kết dứt khoát, nhưng cũng vì một sự chờ mong trước một sự an toàn có tính sinh tồn (công việc và khoản thu nhập chắc chắn). Sau cùng, những cuộc phối hợp thực tế tại nhiều quốc gia khác lại nhiều vô kể, không phải chỉ vì những giá trị của gia đình và của đời sống hôn nhân bị từ chối, nhưng trước hết, còn vì việc thành hôn được coi như là một sự xa xỉ, đến độ sự nghèo túng vật chất đẩy người ta tới với những cuộc hôn phối thực tế ấy.

43.Tất cả những tình huống đó đều phải được giải quyết trong những phương thế mang tính xây dựng, bằng cách cố gắng biến chúng thành những cơ hội cho một con đường dẫn tới sự viên mãn của đời sống hôn nhân và gia đình, trong ánh sáng của Tin Mừng. Vấn đề ở đây là đón nhận và đi theo chúng với sự kiên nhẫn và tinh tế. Trong vấn đề này, chứng tá có tính hấp dẫn của các gia đình Ki-tô giáo thực sự, với tư cách là những chủ thể trong công cuộc loan báo Tin Mừng về gia đình, là điều rất quan trọng.

Chữa lành những gia đình bị tổn thương (những người đang sống trong sự chia ly, những người ly dị không tái kết hôn, những người ly dị tái kết hôn, những cha mẹ đơn thân)

44.Khi những cặp vợ chồng trải qua những khó khăn trong các mối tương quan của họ, họ phải có thể đặt lòng tin vào sự giúp đỡ cũng như sự đồng hành của Giáo hội. Sự mục vụ của tình bác ái tha nhân và của lòng nhân hậu được thực hiện nhằm tái cổ vũ các cá nhân, cũng như tái khôi phục các mối quan hệ. Kinh nghiệm chỉ cho thấy rằng, một tỷ lệ lớn các cuộc khủng hoảng hôn nhân đã được vượt qua nhờ vào một sự giúp đỡ hợp lý cũng như nhờ vào sức mạnh hòa giải của ân sủng trong một cách thế thỏa mãn. Việc có thể tha thứ và kinh nghiệm về sự tha thứ chính là một kinh nghiệm có tính chất cơ bản trong cuộc sống gia đình. Sự tha thứ lẫn cho nhau của các đôi vợ chồng cho phép họ kinh qua một tình yêu mà nó hiện hữu luôn luôn và không bao giờ tan biến (xc. 1 Cor. 13, 8). Nhưng thỉnh thoảng cũng có chuyện một người đã đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa lại cảm thấy rất khó trong việc cố gắng để mình có được sức mạnh hầu có thể tha thứ một cách chân thành, mà sự tha thứ ấy canh tân con người.

45.Từ Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự cần thiết của những quyết định can đảm về mục vụ đã trở nên rõ ràng. Các Nghị Phụ đã khẳng định một cách mạnh mẽ về sự trung tín đối với Tin Mừng gia đình, và đã nhận thức được rằng, sự chia tách và ly dị bao giờ cũng là một nỗi đớn đau, nó gây ra một sự đau khổ thẳm sâu đối với những cặp vợ chồng và những đứa con có liên quan. Do đó, các Nghị Phụ nhìn thấy tính cấp thiết của những con đường mục vụ mới mà chúng xuất phát từ hiện thực thực tế, nơi tính mỏng giòn của các gia đình, trong sự hiểu biết rằng, sự ly thân và sự ly dị thường „bị gánh chịu“ bởi sự đớn đau hơn là được chọn lựa một cách tự do. Đó là những tình huống khác nhau do những nhân tố vừa mang tính cá nhân lại cũng vừa mang tính văn hóa và kinh tế xã hội. Nó đòi hỏi một cái nhìn có tính biện phân như Đức Tân Hiển Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng đã từng giới thiệu (xc. Familiaris Consortio, 84).

46.Bất cứ gia đình nào cũng phải được lắng nghe, trước tiên là với sự kính trọng và với tình yêu, bằng cách người ta biến mình thành những người bạn đường, như Chúa Ki-tô đã thực hiện như thế với các môn đệ trên đường đến Emmaus. Đối với những tình huống ấy, những lời sau đây của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô có một ý nghĩa đặc biệt: „Giáo hội cần phải hướng dẫn các thành viên của mình – Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân – đi vào trong ´nghệ thuật của sự đồng hành` ấy, để tất cả thường xuyên học hỏi, hầu tự mình cúi xuống để chạm đến những đôi dép dưới những bàn chân, trước thánh địa của người khác (xc. Xh. 3, 5). Chúng ta phải mang đến cho lối sống của chúng ta nhịp điệu thuận lợi của sự quan tâm, với một cái nhìn đầy kính trọng từ lòng trắc ẩn, nhưng đồng thời cái nhìn đó cũng mang đến sự chữa lành, sự giải phóng, cũng như khích lệ sự trưởng thành trong đời sống Ki-tô giáo“ (Evangelii Gaudium, 169).

47.Một khả năng phán đoán đặc biệt là điều cần thiết để đồng hành mục vụ với những người đang ly thân, với những người ly dị và với những người đang bị bỏ mặc. Trước hết, sự đau khổ của những người mà họ đã phải chịu đựng trước sự ly thân hay ly dị một cách bất công, hoặc đang bị bỏ mặc, hay đang gượng gạo vì sự ngược đãi của người bạn đời, để từ bỏ cuộc sống chung, cần phải được ghi nhận và chú ý. Sự tha thứ cho sự bất công đã phải chịu đựng là điều không đơn giản, nhưng đó là một con đường mà nó được mở ra bởi ân sủng. Điều đó dẫn đến một sự cần thiết đối với một sự chăm sóc mục vụ hòa giải và kiến tạo bình an, thông qua những hoạt động đặc biệt để lắng nghe, mà những hoạt động đó được tổ chức nơi các Giáo phận. Trong một cách thế tương tự, phải được thường xuyên nhấn mạnh rằng, việc quan tâm đến những hậu quả của sự ly thân hay ly dị đối với con cái, mà trong bất cứ trường hợp nào, chúng vẫn đều là những nạn nhân vô tội của tình trạng này, bằng một cách thế chân thành và xây dựng, là điều thực sự cần thiết. Con cái không được phép trở thành „chủ thể của các cuộc tranh cãi“, thay vào đó, những con đường tốt nhất phải được tìm kiếm hầu thắng vượt những điều đang gây ra các chấn thương từ sự chia rẽ trong gia đình, và tạo điều kiện cho con cái có được một sự phát triển một cách hồn nhiên trong mức độ tối đa có thể. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, Giáo hội cũng sẽ phải luôn luôn nêu ra sự bất công mà nó rất thường nảy sinh từ tình trạng ly dị. Một sự quan tâm đặc biệt cũng được coi là sự đồng hành với những người cha hoặc những người mẹ đơn thân, mà trước hết, phải có sự hỗ trợ đối với những phụ nữ đang một mình gánh vác cả trách nhiệm nội trợ lẫn việc giáo dục con cái.

48.Một số lớn các Nghị Phụ đã nhấn mạnh tới sự cần thiết trong việc trình bày những cách thức mang tính dễ tiếp cận hơn, cũng như dễ thích ứng hơn với việc công nhận sự vô hiệu của hôn nhân, và khước từ hoàn toàn mọi cước phí có thể. Do đó, những đề nghị sau đây đã được đưa ra: hủy bỏ tính cần thiết của hai bản án tương đồng; khả năng ấn định một cơ quan hành chính dưới sự phụ trách của Giám mục Giáo phận; thủ tục tố tụng khẩn cấp trong những vụ bất thành sự một cách rõ ràng. Tuy nhiên, một số Nghị Phụ đã  tỏ quan điểm chống lại những đề nghị vừa nêu, vì chúng sẽ không bảo đảm cho một bản án đáng tin cậy. Điều này được nhấn mạnh rằng, trong tất cả những trường hợp ấy, vấn đề nằm ở chỗ phải xác định được tính chân thật về sự hợp pháp của khế ước hôn nhân. Theo những đề nghị khác, phương án giải quyết nên được tính đến việc tạo thêm trọng lượng cho vai trò của Đức Tin mà các cặp hôn nhân đang có, với cái nhìn về tính hiệu lực của Bí Tích, mà qua đó không hề gây ra sự nguy hiểm, bởi trong số những người đã được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, tất cả các cuộc hôn nhân thành sự đều là một Bí Tích.

49.Với cái nhìn về một sự nghiêm minh trong quá trình hôn nhân, được đòi hỏi từ nhiều người, bên cạnh việc đào tạo đầy đủ cho các cộng tác viên – các Giáo sĩ cũng như những người Giáo dân -, mà họ ưu tiên dấn thân cho sứ vụ này, trách nhiệm của Giám mục Giáo phận cần phải được nhấn mạnh. Ngài có thể trao phó cho các tư vấn viên đã được chuẩn bị một cách thích đáng, họ sẽ tư vấn cho các bên về tính hợp pháp trong hôn nhân của họ một cách miễn phí. Những nhiệm vụ ấy có thể được trao cho một cơ quan hay cho những người có chuyên môn (xc. Dignitas Connubii, Art. 113, 1).

50.Những người ly dị nhưng không tái kết hôn, mà họ thường thực hiện những chứng tá đối với sự chung thủy của hôn nhân, nên được khích lệ để tìm thấy sự nuôi dưỡng trong Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích này sẽ nâng đỡ họ trong hoàn cảnh của họ. Các cộng đoàn địa phương và các vị mục tử cần phải đồng hành với những con người ấy một cách ân cần, đặc biệt là khi họ có con cái hay khi họ đang phải chịu đựng một sự túng thiếu nặng nề.

51.Ngay cả tình trạng của những người đã ly dị nhưng lại tái kết hôn cũng cần tới một sự nhận biết đầy ân cần và một sự đồng hành với sự kính trọng to lớn. Trong vấn đề này, bất cứ cách thức diễn đạt hay bất cứ thái độ nào khác cũng đều phải được ngăn ngừa. Đối với đời sống của cộng đoàn Ki-tô giáo, sự chăm sóc mục vụ này không có nghĩa là làm giảm sút Đức Tin của họ, hay làm giảm sút những chứng tá của họ về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Trái lại, nó diễn tả Đức Ái của họ đối với tha nhân ngay trong sự chăm sóc mục vụ này.

52.Các Nghị Phụ đã suy tư về khả năng cho phép những người đã ly dị nhưng tái kết hôn, được lãnh nhận Bí Tích Thống Hối và Bí Tích Thánh Thể. Nhiều Nghị Phụ đã kiên trì với quy luật hiện hành, và thực ra là, một mặt vì mối tương quan có tính cơ bản giữa sự tham dự vào Bí Tích Thánh Thể cũng như tham dự vào trong mối hiệp thông với Giáo hội, và mặt khác, vì giáo huấn của Giáo hội về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Các Nghị Phụ khác đã tỏ ý bênh vực cho một sự tiếp nhận vào bàn tiệc Thánh Thể nhưng không quá tổng quát hóa – và cụ thể là, trong một số tình huống đặc biệt, và dưới những điều kiện đã được ấn định, trước hết, khi đó là những trường hợp không thể đảo ngược, với những trách nhiệm luân lý đối với con cái, mà chúng đã phải chịu đựng một cách bất công. Một con đường thống hối, dưới trách nhiệm của Giám mục Giáo phận, phải xuất hiện trước khi có sự tiếp cận có thể đối với các Bí Tích. Nhưng vấn nạn còn phải được đào sâu, trong khi đó, sự phân biệt giữa một hoàn cảnh mang tính khách quan của tội lỗi và những tình tiết giảm nhẹ  là điều cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, vì „sự đủ điều kiện của một hành vi có trách nhiệm đối với hành vi đó (…) có thể được giảm bớt nhờ vào (…) những yếu tố tâm lý hay xã hội, và thậm chí còn có thể bị thủ tiêu“ (sách GLHTCG, số 1735).

53.Một số Nghị Phụ đã xác tín rằng, những người ly dị tái kết hôn, hay cùng sống chung với một người bạn đời, vẫn có thể tham dự vào việc hiệp Lễ thiêng liêng trong một cách thế phong phú. Về điều đó, một số Nghị Phụ lại đặt ra câu hỏi, tại sao họ không thể đón nhận Bí Tích Thánh Thể theo nghĩa thực tế. Và như thế, một sự đào sâu thêm của chủ đề này đã được đề ra nhằm nhấn mạnh tới đặc tính riêng của cả hai hình thức và mối quan hệ của chúng với Thần Học về đời sống hôn nhân.

54.Các vấn đề liên quan đến hôn nhân hỗn hợp tôn giáo vẫn luôn được đề cập đến trong những đóng góp của các Nghị Phụ. Sự khác biệt về luật hôn nhân của Giáo hội Chính thống giáo đang đưa tới những vấn đề trong một số mối liên hệ, mà chúng phải được suy tư trong công cuộc đại kết. Tương tự, sự hợp tác trong công cuộc đối thoại liên tôn cũng sẽ có nhiều ý nghĩa đối với hôn nhân liên tôn.

Sự quan tâm mục vụ đối với những người có xu hướng đồng tính

55.Một số gia đình đã trải qua kinh nghiệm rằng, một số người giữa họ đang sống với xu hướng đồng tính. Trong mối liên hệ đến điều đó, người ta đã tự hỏi, sự quan tậm mục vụ nào sẽ phù hợp trong những trường hợp ấy, trong khi người ta liên hệ tới điều mà Giáo hội dậy: „Tuyệt nhiên không hề có cơ sở nền tảng đối với chuyện thiết lập nên những điều tương tự giữa cuộc sống chung đồng giới và kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, cũng không hề có như vậy ngay cả trong một ý nghĩa rộng hơn“. Tuy nhiên, những người nam và những người nữ mang khuynh hướng đồng giới, cần phải được đón nhận với sự kính trọng và với sự tinh tế. „Người ta hãy canh chừng trước việc đối xử bất công với họ bằng bất cứ cách nào“ (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Những cân nhắc đối với những dự án của một áp dụng hợp lý trước sự chung sống giữa những người đồng tính, 4).

56.Hoàn toàn không thể chấp nhận được rằng, áp lực sẽ bị tác động trên các vị mục tử của Giáo hội trong vấn nạn này, và cũng không thể chấp nhận được rằng, các tổ chức quốc tế trợ giúp cho các quốc gia nghèo sẽ bị phụ thuộc vào việc họ giới thiệu một cuộc „hôn nhân“ giữa những người cùng giới tính trong sự ban hành luật pháp của mình.

Truyền sinh và thách thức của việc giảm sinh

57.Thật dễ dàng để nhận ra rằng, đang có sự lan rộng của một tâm lý muốn cắt giảm việc truyền sinh bằng một sự thay đổi trong kế hoạch của một cá nhân hay của một cặp vợ chồng. Các điều kiện kinh tế đôi khi tác động như một trọng lực mang tính quyết định và góp phần mạnh mẽ trong việc làm sút giảm những ca sinh nở, và sự giảm sút sinh nở này sẽ làm kiệt lực mạng lưới xã hội, gây hại cho mối tương quan giữa các thế hệ, và làm mất đi sự tự tin trong cái nhìn về tương lai. Việc mở ra đối với sự sống là một đòi hỏi thuộc về bản chất của tình yêu hôn nhân. Trong ánh sáng ấy, Giáo hội ủng hộ những gia đình đón nhận những đứa con bị tàn tật để làm con nuôi, giáo dục và bao bọc chúng bằng tình yêu của mình.

58.Ngay cả trên lĩnh vực này, người ta cũng phải bắt đầu từ những gì mà con người nói và tạo điều kiện cho vẻ đẹp cũng như chân lý của một sự mở ra vô điều kiện đối với sự sống theo quyền lợi của nó, cũng như cái mà tình yêu nhân loại cần có để được sống trong sự viên mãn của mình. Trên nền tảng đó, một giáo huấn hợp lý về những phương pháp tự nhiên cũng có thể hỗ trợ cho một sự sinh sản có trách nhiệm. Giáo huấn ấy sẽ tạo điều kiện để sống một cách hài hòa và ý thức về sự hiệp thông giữa những cặp vợ chồng trong tất cả mọi chiều kích của nó và với trách nhiệm mô phỏng. Thật hữu ích trong việc tái khám phá ra sứ điệp của Thông Điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người) mà Đức Phao-lô VI đã ban hành, sứ điệp ấy nhấn mạnh rằng, phẩm giá con người phải được kính trọng trong sự đánh giá mang tính luân lý của những biện pháp hạn chế sinh sản. Việc đón nhận những em bé mồ côi hay bị ruồng rẫy để làm con nuôi là một hình thức đặc biệt của công cuộc chăm sóc mục vụ gia đình (xc. Apostolicam Actuositatem, III, 11).  Quyền giáo huấn đã nhiều lần đưa ra sự chỉ dẫn cũng như khích lệ về điều đó (xc. Familiaris Consortio, III, II;Evangelium Vitae, IV, 93). Việc quyết định nhận con nuôi hay trở thành người giám hộ diễn tả kinh nghiệm về sự phong nhiêu của tình yêu hôn nhân trong một cách thế đặc biệt; và điều đó sẽ không chỉ như thế nếu quyết định ấy bị dán mác bởi sự vô sinh. Một quyết định như thế là một chỉ dấu có sức diễn cảm của tình yêu gia đình. Nó cho phép làm chứng cho Đức Tin riêng và trao lại phẩm giá của một em nhỏ cho những em đã bị đánh mất phẩm giá ấy.

59.Điều đó cũng có giá trị để sống tình yêu ngay cả trong khế ước hôn nhân như là con đường của sự chín muồi, trong sự đón nhận ngày càng sâu xa với người khác cũng như trong sự trao hiến ngày càng trọn vẹn. Trong mối tương quan ấy, vấn đề phải được khẳng định rằng, những phương pháp giáo dục mà chúng củng cố đời sống hôn nhân, cần phải được giới thiệu; hơn nữa, cũng cần phải khẳng định rằng, điều đó cần tới những người giáo dân biết giới thiệu một sự đồng hành thông qua chứng tá sống động của họ. Gương sáng của một tình yêu chung thủy và thẳm sâu là một sự trợ giúp to lớn; nó được khắc ghi bởi sự dịu hiền và sự kính trọng, nó liên tục phát triển với thời gian, và trong sự cởi mở cụ thể của nó với sự truyền sinh, tình yêu ấy mở ra kinh nghiệm về một mầu nhiệm vượt quá chúng ta.

Thách đố trong việc giáo dục và vai trò của gia đình trong việc loan báo Tin Mừng

60.Một trong những thách đố có tính nền tảng đối với các gia đình ngày nay, tất nhiên hàm chứa trong sự giáo dục. Thậm chí thách đố này càng ngày càng khắt khe và phức tạp hơn bởi thực tế văn hóa hiện tại cũng như tác động lớn của các phương tiện truyền thông. Mặc dù thế, nó có giá trị hầu lưu ý một cách thích đáng tới những đòi hỏi cũng như những trông chờ của các gia đình mà họ đang ở trong tình trạng để hiện diện trong những nơi phát triển và tiếp tục trao đi một cách hoàn toàn bất cứ nhân đức nào trong cuộc sống hằng ngày, mà các nhân đức ấy tạo nên kiểu dáng cho sự hiện hữu. Điều đó có nghĩa là, cha mẹ phải có sự tự do trong việc tìm kiếm những cách thức giáo dục dành cho con cái mình, mà cách thức ấy tương ứng với những điều xác tín của họ.

61.Căn cứ trên việc kết nạp vào Ki-tô giáo thông qua những cộng đoàn sẵn sàng đón nhận, Giáo hội đóng một va trò quý giá trong việc hỗ trợ các gia đình. Vì thế, Giáo hội được đòi hỏi nhiều hơn nữa trong việc hỗ trợ các gia đình trong sứ mạng giáo dục, kể cả trong những tình huống bình thường lẫn trong những tình huống đặc biệt, và đồng hành với các em nhỏ cũng như với giới thanh thiếu niên, trong sự phát triển của chúng. Điều này diễn ra thông qua những con đường mà chúng được làm cho thích hợp với từng nhân vị, hầu hướng dẫn chúng đi vào một ý nghĩa toàn diện về cuộc sống, cũng như  giúp chúng đưa ra những quyết định và tiếp nhận tinh thần trách nhiệm, mà tinh thần trách nhiệm ấy được sống trong ánh sáng của Tin Mừng. Trong sự dịu hiền, cũng như trong lòng nhân hậu và tình thương từ mẫu của Người, Đức Maria sẽ có thể làm thỏa mãn cơn đói khái về nhân tính và sự sống. Công cuộc mục vụ và sự tôn kính Đức Maria sẽ là những điểm khởi phát tốt đẹp nhằm công bố Tin Mừng về gia đình.

KẾT LUẬN

62.Những suy tư được trình bày trên đây chính là kết quả từ các buổi làm việc của Thượng Hội Đồng Giám mục, mà các buổi làm việc ấy đã diễn ra trong sự tự do to lớn cũng như trong một thái độ lắng nghe lẫn nhau. Các suy tư này muốn đặt ra những vấn nạn cũng như muốn vạch ra những viễn tượng. Trong năm, tức thời gian kể từ lúc kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường về gia đình tới khi có phiên họp khoáng đại của Thượng Hội Đồng  Giám Mục thường kỳ lần tới, những suy tư này sẽ phải trở nên chín muồi cũng như phải được giải thích rõ ràng thông qua những suy tư của các Giáo hội địa phương; cứ sự thường, Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2015, và sẽ được dành để nghiên cứu về ơn gọi và sứ vụ của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới hôm nay. Nó sẽ không phải là những quyết định đã được đưa ra cũng chẳng phải là những viễn tượng đơn giản. Nhưng con đường tập thể tính của các Giám mục và sự bao hàm của toàn thể dân Chúa dưới tác động của Chúa Thánh Thần và việc hướng nhìn lên mẫu gương gia đình Thánh Gia sẽ có thể hướng dẫn chúng ta trong việc tìm thấy được con đường của chân lý và lòng khoan hậu đối với tất cả. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã hướng đến chúng tôi niềm mong muốn ấy ngay từ khi bắt đầu những công việc của chúng tôi, và Ngài đã mời gọi chúng tôi hãy có sự can đảm của Đức Tin, và hãy đón nhận chân lý trong Đức Ái một cách khiêm nhượng và chân thành.

Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới - Khóa họp ngoại thường lần thứ III, từ ngày 5 – 19/10/2014

Minh Trần - CTV của trang thông tin Giáo xứ Thánh Mẫu – Chuyển ngữ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét