GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG
TRƯỜNG 2016 - BẢN TIN 03
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Trước
thềm Năm Mới Bính Thân 2016, Ban tổ chức Giải Viết Văn Đường Trường xin kính
chúc quý Ban Biên Tập các trang Truyền Thông Công Giáo, quý tác giả và độc giả
bốn phương một cái Tết vui tươi đầm ấm và một Năm Mới an bình hạnh phúc trong
Chúa.
Theo
quy định trong bản thể lệ Giải Viết Văn Đường Trường, các tác giả đạt giải có
thể được Tủ sách Nước Mặn của Ban Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn hỗ trợ xuất bản
một tuyển tập truyện ngắn riêng mang nội dung Kitô giáo. Tác phẩm đầu tiên được
thực hiện theo chương trình này là tuyển tập ĐƯỜNG VỀ của tác giả PHÊRÔ NGUYỄN
HOÀNG HẢI. Đây là một trong số rất đông các tác giả văn thơ Công giáo thuộc
Giáo phận Nha Trang chúng tôi được quen biết qua các cuộc thi văn thơ đã tổ
chức.
Tuyển
tập ĐƯỜNG VỀ có thể đọc và tải xuống tại
Nhân
dịp phát hành tuyển tập này chúng tôi đã trao đổi với Cha Inhaxiô Trần Ngà,
Trưởng ban Văn hóa Giáo phận Nha Trang và Cha quản xứ Ngọc Thủy, linh mục nhạc
sĩ Mi Trầm, để tổ chức một cuộc gặp gỡ giao lưu với các tác giả thuộc Giáo phận
Nha Trang tại hội trường Giáo xứ Ngọc Thủy vào Chúa Nhật ngày 31-01-2016, từ
9g00 đến 13g00. Có hơn 40 tác giả được mời và hơn 20 tác giả nhận lời tham dự.
Đây là một hứa hẹn cho tương lai văn thơ Công giáo tại Giáo phận Nha Trang.
Chúng tôi ước mong sớm nhận được những tuyển tập của các tác giả khác đã từng đạt
giải Viết Văn Đường Trường trong ba năm qua để tiếp tục xúc tiến việc in ấn và giới
thiệu với bạn đọc.
Xin
được gửi đến quý vị và các bạn 8 truyện mới được chọn qua vòng sơ loại trong số
12 bài dự thi có mã số từ 16-025 đến 16-036.
Hiện
nay cuộc thi lần thứ 4 (2016) vẫn đang tiếp tục nhận bài dự thi. Ước mong quý
vị và các bạn giúp giới thiệu chương trình này thật rộng rãi để có nhiều tác
giả Công giáo ở khắp nơi cùng tham gia.
Xin
mời xem thể lệ cuộc thi ở cuối bản tin này và các thông tin khác về cuộc thi
tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Xin
chân thành cám ơn.
Qui
Nhơn, ngày 29-01-2016
Thay
lời Ban Tổ chức
Linh
mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 16-025
HỌA SỸ
Ông là biểu tượng của tinh thần lao động chân chính nhiệt thành ; chẳng
khác gì con ong làm việc cần mẫn tỉ mỉ ; tựa như danh hiệu người ta gán cho ông,
coi ông như một bậc thầy ; dẫu cho ông từ chối, ông vẫn cứ nổi danh đến mức
ngay cả khi ông đang tưc giận, ném cả khay màu vào mảnh vải trắng, thậm chí
trét màu nghệch ngoạc lên bất kỳ đâu, người ta vẫn công nhận đó là một tuyệt
phẩm!Những tác phẩm trứ danh lần lượt ra đời, nhưng ông cho đó chỉ là chút tài
mọn, chẳng đáng gì để mà ngợi ca!
Ông sống đơn độc một mình. Bởi tánh khó nên ông chẳng gần được với ai.
Có chăng chỉ vài fan hâm mộ vốn say tài ông như đổ. Suốt ngày, ông ngồi ôm giá
vẽ có khi quên cả ăn ngủ. Ông sáng tác miệt mài tưởng như không bao giờ cạn
kiệt ý tưởng. Vẽ, chính là niềm vui duy nhất của ông, là chất kích thích đẻ ra
tiền khiến ông vẽ đến quên chết. Song, lắm khi ông cụt hứng bất tử, lại hay bị
đám fan rủ rê. Thế là ông quăng bỏ hết, đi chơi một mạch đến sáng hôm sau mới
về
Ông vẽ đủ các loại tranh, nhưng vẽ Phật thì ông thích hơn hết, một phần
do ông tôn sùng Đạo Phật. Đức Phật dạy chúng sanh phải có lòng từ bi hỷ xả. Lời
dạy của Ngài như dòng suối ngọt ngào thấm đậm vào lòng ông, giúp ông tìm được
nguồn năng lượng đích thực, cho ông có được đời sống thanh tịnh. Mỗi khi vẽ về
Ngài lòng ông thấy thanh cao nhẹ nhàng. Ông vẽ Phật rất đẹp cũng là nhờ ông có lòng
yêu mến Ngài. Vậy nên, tranh vẽ của ông ngày càng nổi tiếng.
Trước kia, ông vốn là người giàu có, từng có một gia đình êm ấm. Vợ ông,
một thiếu nữ xinh đẹp, hiền lành. nhưng lại là người Công Giáo, trong khi ông
là một Phật Tử sùng đạo. Tuy hai người hai tôn giáo khác nhau nhưng khi hai con
tim ập lại, không một thứ công nghệ bóc tách nào có thể chia lìa được họ. Họ
lấy nhau vì tình yêu chân thành. Cả hai thỏa thuận đạo ai người nấy giữ. Tuy
nhiên, về sống bên nhau được ít lâu ông bỗng đổi tính, thường hay tỏ thái độ khó
chịu mỗi khi chị vợ ngồi đọc kinh hoặc đi lễ nhà thờ. Từ đó, hai vợ chồng
thường bất hòa lục đục. Cuối cùng, họ quyết định sống ly thân
Việc ly thân với vợ chính ông là người đề xướng. Từ ngày ra ngoài sống
một mình ông tưởng đâu lòng ông dễ chịu hơn. Nhưng không, đầu óc ông luôn nghĩ
bậy bạ, lại bị đám fan hâm mộ thường xuyên đến nhà rủ ăn nhậu, khiến ông chẳng
thể ngồi yên sáng tác được. Đã thế ông còn vừa quen một cô gái trẻ xinh đẹp
thường hẹn hò cô nàng đi chơi đây đó
Đó là những ngày trong tâm hồn ông như có ma quỷ, khiến ông luôn bẳn
gắt hay la lối vợ con mỗi khi ông trông thấy họ, dù họ chẳng làm gì sai trái.
Trong lòng ông luôn dậy sóng, đến nỗi, mỗi lần đi Chùa ông không tài nào ngồi
tập trung tụng kinh niệm Phật được. Ông càng sống sa đọa hơn khi bị cô nhân
tình đến quấy rầy liên tục. Cô ta quấy nhiễu ông bao nhiêu, ông càng mê say cô
ta bấy nhiêu, bất chấp cô ta đã có chồng con. Ông sa vào chuyện tình ái, rồi cơ
bạc ăn chơi nợ nần đến bán hết của cải tài sản.
Một ngày kia, trong túi ông chẳng còn tiền bạc rủng rỉnh đi chơi bời
nữa. Cũng chẳng còn khách hàng nào đến đặt hàng ông vẻ tranh. Đang ngồi buồn
thì người vợ bất ngờ tìm đến gặp ông. Bà nói muốn đặt hàng ông vẽ một bức tranh
về Đức Mẹ. Bà biết lúc này ông đang thất nghiệp, sẵn sàng trả cho ông giá cao
gấp đôi những nơi khác để ông có tiền tiêu xài. Bà chỉ yêu cầu ông cố gắng thực
hiện bức tranh cho đẹp là được
Không hiểu sao lời đề nghị của bà làm ông thấy phấn khích. Người vợ cho
biết, nhân dịp lê Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội sắp đến bà muốn tặng bức tranh cho
cha xứ, và bà biết trong vùng này chỉ có ông là người thực hiện nổi bức tranh.
Dù giữa hai vợ chồng luôn mâu thuẫn nhau về tôn giáo, song bà vẫn tin ông sẽ
nhận lời vẽ giúp cho bà
Đã lâu không gặp lại vợ ông tưởng đâu bà vợ không còn muốn gặp ông nữa.
Hôm nay bà đến thình lình ông thấy lòng xốn xáng lạ lùng. Thêm nữa, ông đang
cần tiền nên không muốn bỏ qua cơ hội. Tuy nhiên, ông bộc bạch từng vẽ nhiều
tranh về các vị thần thánh, vẽ Đức Phật, riêng Đức Mẹ thì chưa bao giờ
Người vợ nói vì vợ chồng sắp chính thức ly hôn nên bà muốn ông dành cho
bà một kỷ niệm đẹp, để khi xa nhau còn có gì để nhớ về nhau. Vật kỷ niệm chính
là bức tranh này. Nghe vợ nói ông thấy mủi lòng, thật khó mà từ chối. Ông cảm
nhận sau ba năm sống ly thân, hai vợ chồng khó có thể hàn gắn lại với nhau lại
như xưa, cho nên, để không làm bà thất vọng, ông hứa sẽ cố gắng thực hiện bức
tranh thật hoàn hảo và muốn coi đây là món quà kỷ niệm cuối cùng ông vẽ dành
tặng cho bà trước khi chia tay
Bà vơ đưa cho ông một bức ảnh về khuôn mặt Đức Mẹ, bà muốn ông sáng tác
thêm để tạo nên một bức họa khác biệt so với những bức người ta vẽ khá nhiều về
Mẹ Maria, bà không muốn có sự trùng lắp
Suốt ba ngày liền ông ngồi vẽ Đức Mẹ mà không sao vẽ nổi, bởi ông không
tài nào tập trung được.
Ông gọi điện nói bà cho thêm tư liệu về Đức Mẹ để ông nghiên cứu, xem
ông có thể sáng tác được không. Bà vợ gủi cho ông một cuốn sách nói về Đức Mẹ
Vô Nhiễm, bà còn gừi cho ông 100 truyện tích về Đức Mẹ Mân Côi, ông đọc ngấu
nghiến nghiên cứu suốt cả tháng trời.
Theo kinh nghiệm của ông, muốn sáng tác một bức họa ông phải bỏ công
sức đi tìm tài liệu nghiên cứu, sau đó phác thảo bố cục nội dung trong đầu,
hình dung về mầu sắc, nét vẽ đặc trưng của riêng ông, nắm bắt được cái hồn của
tác phẩm thì ông mới có thể bắt tay vào thực hiện bức vẽ
Nếu muốn vẽ về Đức Phật, hay vẽ về các nhân vật huyền thoại tôn giáo
khác, đặc biệt vẽ về Đức Mẹ cần phải có lòng yêu mến thật lòng xuất phát từ
trong trái tim, từ tận đáy lòng thì mới có thể lột tả hết cái hồn của bức tranh.
Một họa sỹ không thể khiếm khuyết về mặt này, nếu không bức họa sẽ trở nên khô
cứng, vô hồn, màu sắc bất ổn sẽ khiến tranh thiếu sức sống. Xưa nay ông chưa vẽ
một bức tranh nào mà ông không đặt hết tâm tư tình cảm của mình vào trong tranh.
Ông không thể vẽ một bức tranh để rồi khách hàng chê bai dè bỉu ông
Đầu tiên ông vẽ về khuôn mặt Đức Mẹ. Ông không hiểu Đức Mẹ là ai, là
người nước nào, mà sao khuôn mặt Mẹ rạng rỡ xinh đẹp đến như vậy. Chỉ vẽ mỗi
khuôn mặt Mẹ thôi ông vẽ suốt hai tuần vẫn chưa ưng ý, vừa vẽ vừa ngắm nhìn
khuôn mặt từ bi của Mẹ. Ông không thể tin Đức mẹ có một sức thu hút mãnh liệt
đến như vậy, cang vẽ ông càng thấy háo hức
Có khi vừa vẽ ông vừa mở sách ra nghiên cứu, nghiền ngẫm, ông đọc không
thiếu một chuyện nào về Mẹ, ông đọc say sưa và bị câu chuyện cuốn hút vào, bởi
có nhiều truyện tích mà ông đọc không biết chán, những chuyện kể về Mầu Nhiệm
Mân Côi. Ông chưa từng biết về Chuỗi Hạt Mân Côi Đức Mẹ cầm trên tay. Nay đọc
về các truyện tích ông khám phá Chuỗi Hạt kỳ diệu này. Đã có biết bao linh hồn
được cứu nhờ siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ Chuỗi Hạt mà nhiều người tội lỗi
được ơn trờ nên tốt lành. Rồi vì đọc nhiều nên bị nhập tâm lúc nào không hay,
cảm thấy hình ảnh Mẹ Maria ngày càng gần gũi với ông hơn
Chính vì lòng ngưỡng mộ Chuỗi Hạt, nên khi vẽ đến đôi bàn tay Đức Mẹ
đang trân trọng nắm giữ Chuỗi Hạt trong tay mẹ, khiến lòng nghệ sỹ càng thêm bị
thôi thúc. Ông nắn nót vẽ từng nét vẽ tỉ mỉ với một lòng kính trọng tuyệt đối,
cho đến khi vẽ trọn vẹn cả khuôn mặt và chuỗi Tràng Hạt. Trong lúc vẽ ông nhận
ra một điều, nếu biết đọc Kinh Kính Mừng thì ông tin ông sẽ vẽ tốt hơn nữa. Thế
là ông tìm hiểu về Kinh Kính Mừng
Quả thật như vậy, khi vừa vẽ vừa cầm trên tay quyển sách kinh, ông vừa
đọc thầm Kinh Kính Mừng. Ông mới thực hiện xong hai phần ba bức tranh mà không
thể nào tưởng tượng nổi, ông kinh ngạc khi thấy Chuỗi Hạt mình vẽ bỗng rực sáng
không khác gì khuôn mặt Thánh thiện của Đức Mẹ. Ông cảm thấy mình như đang vẽ một
tác phẩm diệu kỳ, một kiệt tác, lòng ông Họa Sỹ vui chưa từng có
Buổi sáng hôm đó, khi vưa thức giấc, định đi rửa mặt, ăn sáng rồi tiếp
tục công việc. Thế nhưng, ông họa sỹ cảm thấy thèm cà phê một cách kỳ lạ. ông
muốn ra ngoài tìm một quán cà phê nào đó ngồi thưởng thức cà phê, xong rồi về
làm việc tiếp.
Khi ông vừa định ra khỏi nhà thì cô nhân tình ông bất ngờ xuất hiện. Cô
nhân tình này mấy ngày nay thường gọi điện cho ông, vì suốt một tháng qua ông
không hề gặp mặt cô ả. Nay cô nàng mới biết, thì ra ông say mê vẽ tranh hơn cả
say mê cô nàng
Cô nàng tức giận đã quay vào nhà định phá bỏ bức tranh, nhưng ông họa
sỹ đã nhanh tay cản lại. Cô ta ghen tức gào lên khi trông thấy người đàn bà
trong tranh kia sao quá đẹp. Hóa ra ông họa sỹ say mê vẽ bà ấy đến nỗi cô ta
gọi điện rủ ông đi chơi ông không thèm đi. Tức giận cô tình nhân cố chấp lao
đến quyết phá bức tranh cho bõ cơn tức, nhưng ông đã cho cô gái một cái tát như
trời giáng rồi đuổi cô ta đi. Bị đánh khiến cô kia tự ái`, tức giận. Cô ta liền
bỏ đi tức khắc
Khi cô tình nhân đi rồi, ông nhận ra một điều lạ lùng. Như thể có ma
lực nào đó giúp ông ngăn cản cô tình nhân không cho phá bỏ bức tranh. Tuy nhiên,
điều ông thấy ngạc nhiên hơn, là ông chưa từng bao giờ bạo hành cô bạn gái yêu
quý của ông, cũng như chưa hề mắng cô ta dù chỉ một lời. Vậy mà hôm nay ông đã
cho cô ta một cái tát nảy lửa, lại còn đuổi thẳng cô ta ra khỏi nhà. Nhưng
tuyệt nhiên ông không chút hối hận. Trái lại ông cảm thấy tự hào, vui sướng,
bởi tác phẩm của ông đã được thực hiện hoàn tất
Ngày hôm sau người vợ đền xem coi ông vẽ ra sao, vì suốt mấy tháng qua
bà cũng lo không biết ông có vẽ được không. Thật bất ngờ, khi ông đưa bức tranh
ra cho bà xem, bà suýt nữa rú lên vì kinh ngạc. Bởi bà không tin vào mắt mình
khi bức tranh ông thực hiện quá đẹp. Khuôn mặt Đức Mẹ, và chuỗi Tràng Hạt Mẹ
cầm trên tay ông vẽ rực sáng nổi bật trên nền tranh, y như hình chụp chứ không
phải vẽ
Người vợ thắc mắc không hiểu vì đâu mà ông có thể vẽ Đức Mẹ đẹp đến như
vậy. Ông kể cho bà nghe tất cả. kể luôn về cô bạn gái muốn phá hủy bức tranh vì
ghen tức với Đức Mẹ. Ông nói thẳng ông không bao giờ gặp lại cô gái đó nữa. Ông
nói một cách thật lòng, trên ánh mắt ông lộ rõ điều đó. Bà nhận ra ông thay đổi
một cách lạ kỳ
Chuyện ông có bồ bây giờ bà mới biết là do chính miệng ông thú nhận,
chứ có bao giờ ông nói ra chuyện này! Chỉ bấy nhiêu thôi bà đã thấy kinh ngạc
rồi. Ông vui quá đến độ đã hết lên : “ Tất cả là nhờ ơn Đức Mẹ “ Sau những ngày
miệt mài vẽ tranh ông thấy lòng mình thanh thản khoan khoái lạ thường
Bà nhét vào tay ông một chiếc phong bì, như bà từng hứa. Nhưng ông từ
chối không nhận. Bởi ông cho bà biết, sáng nay ông vừa nhận được một hợp đồng
lớn. Ông nói muốn tạ ơn Đức Mẹ vì từ ngày vào nghể ông chưa bao giờ nhận một
hợp đồng lớn như vậy
Hai ông bà ngồi nói chuyện với
nhau rất lâu trong gian phòng nhỏ như chưa bao giờ được nói. Thái độ của họ
cũng hoàn toàn khác hẳn, như thể họ là đôi tình nhân gìà đã xa nhau từ kiếp nào,
nay bất ngờ hội ngộ. Họ kể cho nhau nghe biết bao điều, đến nỗi, họ không muốn
thời gian trôi qua nhanh…Thời gian ơi, hãy chậm lại để hai con tim quyện nhau
trở lại
Mã số: 16-026
KẺ CHÁN ĐỜI
Hẳn các bạn đã từng nghe câu chuyện trong Kinh Thánh kể về “đứa con
hoang đàng”, một kẻ ăn chơi trụy lạc
buộc phải xin bố chia gia tài cho hắn. Người bố nhân hậu chia cho hắn cả một
gia tài kếch xù. Vậy mà chỉ trong thời gian ngắn hắn ăn xài phung phí không còn
xu dính túi, cuối cùng hắn phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; phải xin
đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho …
Tôi cũng như hắn, kể xấu về hắn chứ bản thân tôi có khác gì! Khi biết
vợ tôi ngoại tình, tôi tức điên lên mà chẳng làm gì được cô ta. Trong cơn điên,
tôi đã vét sạch tiền của nàng và cha tôi bỏ đi biệt tích. Tôi ăn chơi phung phí,
rượu chè, bao gái, hút sách còn hơn cả thằng con hư hỏng kia nữa. Chỉ khác một
điều, là khi tôi rơi vào hoàn cảnh khủng khiếp nhất, còn nhục hơn cảnh phải xin
đậu muồng heo mà ăn, thay vì quay về nhà xin lỗi cha tôi, xin vợ tha thứ cho
tôi, thì tôi lại muốn tự giải thoát cho mình bằng cách đi tím cái …chết! Bởi có
trở về thì gia đình tôi cũng tan nát rồi, vợ tôi chắc chắn đã đem theo đứa con
duy nhất của chúng tôi đi theo gã tình nhân kia rồi
Tôi đến một vùng đất vốn là nơi nổi danh về thắng cảnh địa lý, nơi có
nhiều con sông lý tưởng để tôi có thể tìm cái chết một cách êm ả nhất. Tôi đứng
trên một cây cầu cao chót vót, định là sẽ trầm mình xuống dòng sông đen ngòm dưới
kia, nơi tôi biết dòng nước sẽ rất lạnh, nước cuồn cuộn chảy như thác đổ cuốn
cái xác tôi đi, rồi lạnh lùng nhấn chìm tôi xuống tận đáy sông, như nhấn chìm
cái xác thối rữa của một con chó bị người ta vứt bỏ …cho đến khi tôi vĩnh viễn
rời xa thế giới này!
Vào lúc tôi nhắm mắt lại, chuẩn bị nhảy xuống thì tai tôi bỗng nghe
tiếng kêu thất thanh của một người đàn bà. Giật thót mình, tôi mở mắt ra, từ
trên cao tôi thấy một phụ nữ đang gào thét la lên inh ỏi
- Cứu …cứu con tôi! Làm ơn cứu con tôi!
Chị ta vừa kêu la,vừa chỉ tay xuống con sông nước đục ngầu, nơi có đứa
bé đang ngụp lặn chới với giửa dòng nước xoáy. Nhưng giờ phút này tôi chẳng cón
nghĩ gì khác ngoài việc tự sát. Không bận tâm đến người đàn bà, tôi lao nhanh
xuống sông và lập tức bị dòng nước cuốn đẩy tôi đi. Khi hai tay, hai chân tôi
đang quơ quẫy duỗi đạp trong tuyệt vọng, tôi thấy mình vừa đụng phải một cái
xác, tay tôi vô tình quơ trúng thằng bé có gương mặt dễ thương bầu bĩnh với đôi
mắt nhắm nghiền. Bất giác, tôi chợt nghĩ đến thằng con trai duy nhất của tôi,
nó cũng trạc tuổi thằng bé này. Tôi thấy nó đang từ từ chìm xuống. Nghĩ đến con
mình tôi bỗng lạnh tóc gáy. Nhanh như cắt tôi túm lấy cậu bé rồi đạp chân thật
mạnh bơi trồi lên mặt nước như một phản xạ tự nhiên của một kẻ sắp chết đuối.
Tôi vẫn chưa tin mình có thề gặp lại thế giới này và ánh sáng trên bầu trời
chói chang kia như làm tôi tỉnh giấc. Có cảm giác tôi và thằng bé như vừa trải
qua một cuộc đắm tàu, và chúng tôi đả thoát chết một cách hi hữu. Tôi lấy sức
đẩy mạnh đứa bé về phía trước cố sức bơi vào bờ. Tôi không còn đủ sức nữa. Tay tôi vừa chạm vào ai đó thì ngất đi
Tỉnh lại, tôi thấy mình nằm sấp trên vai một người đàn ông lực lưỡng,
miệng tôi liên tục ọc ra một thừ nước mặn chát, toàn thân tôi bị nhấc lên nhồi
xuống như cục bột nhồi bánh khổng lồ, cho đến khi người đàn ông đặt tôi nằm
ngửa trên bãi cát, và ông ra sức làm hô hấp nhân tạo cho tôi… Một lúc sau tôi
mới tỉnh hằn. Tôi thấy rất đông người đứng vây quanh nhìn tôi, chắc họ tưởng
tôi đã đi gặp …” hà bá! “ Thật bất ngờ và buồn cười làm sao Tôi muốn chết hóa
ra lại được sống! Còn cậu bé không muốn chết lại được một thằng sắp chết cứu nó!
Cuộc đời đúng là một cuộc trải nghiệm mà Thượng đế chẳng khi nào báo trước cho
ai biết…
Người đàn bà khi nãy đến bên tôi cám ơn rồi rít mà tôi chẳng biết
chuyện gì! Hóa ra thằng bé được tôi cứu là con của chị. Chị xúc động nắm chặt
tay tôi, trào nước mắt, nói tôi là vị cứu tinh đã cứu con chị thoát chết trong
gang tấc. Trưa hôm đó, chị mời tôi về nhà chơi cho biết nhà, nhân thể chị ta
muốn đền ơn tôi. Tôi từ chối, nhưng chị cố nài nỉ. Cuối cùng tôi nói tôi đang
rất đói, tôi muốn có một bữa ăn ngon. Thế là chị thiết đãi tôi một bữa thịnh
soạn tại một nhà hàng đặc sản nằm ven bãi biển
Chúng tôi ngồi nói chuyện rất lâu trong nhà hàng. Tôi đói quá ăn hết cả
nồi canh chua cá bớp, nó ngon đến nỗi tôi cứ thế ngồi húp xùm xụp cho đến khi
cạn đáy nồi mới chịu buông chén. Ngổi nhìn tôi ăn người đàn bà nói không ngớt
miệng. Ăn no rồi tôi mới nghe chị ta nói về mình. Chị tên Hân. Trong khi Hân
nói tôi ngước nhìn gương mặt tròn trịa xinh xắn của cô nàng. Hân cho biết vừa
chia tay chia tay chồng chưa đầy 2 tiếng thì con trai cô gặp nạn, rằng chồng cô
là một gã lười thôi thây chẳng biết làm ăn gì, chỉ biết ăn bám vợ, đã vậy còn
sáng say chiều xỉn nên Hân muốn chia tay anh ta để giải thoát cho mình
Tôi đi với Hân suốt buổi chiều hôm đó, đến nỗi Hân phải gửi cậu con
trai cho một người quen để có thì giờ đi với tôi. Hân bảo, nàng đang rất buồn
vì số phận hẩm hiu của mình, nàng đang rất cô đơn. Buổi tối, tôi muốn bỏ đi nhưng
Hân cứ muốn giữ tôi lại, vì Hân nói cuộc đời nàng chỉ có đứa con trai duy nhất,
nếu không có tôi thì giờ này nàng không còn được gặp nó nữa, nàng nhắc đi nhắc
lại câu nói muốn đền ơn tôi, Nghe nàng thủ thì, người tôi như nóng bừng lên,
như con chuột đói rã vớ được khúc thịt hầm. Bời, đời tôi còn gì nữa đâu để mà
luyến tiếc, vợ tôi thì giờ này chắc đang ở bên gã tình nhân của cô ta rồi. Bây
giờ, lúc sắp chết lại có nàng cứu vớt. Đêm đó, chúng tôi vào một khách sạn sang
trọng ở bờ biển
Vào khách sạn tôi nhìn đồng hồ đúng 6 giờ chiều. Tình yêu chợt đến
nhưng tôi tin đó không phải là mối tình nửa vời hay tình một đêm, bởi nhìn cử
chỉ ánh mắt của Hân tôi biết nàng thật lòng muốn đến với tôi, Nàng trân trọng
tôi, luôn miệng ca ngợi tôi là một anh hùng, một kẻ đã gây cho nàng ấn tượng
sâu sắc. Nàng bảo, người đàn bà không chỉ thích nhất người đàn ông hào hoa
phong nhã, mà còn thích tính cách một “ chính nhân quân tử “, có “ lòng quả cảm
“! Tôi nghe nàng thốt ra những từ ngữ “ đao to “ đó mà phát ngượng, thành ra, tôi
nghĩ cô nàng đã lầm to! Một “ chính nhân quân tử “ sao lại lấy cắp tiền của vợ
đi bao gái ăn chơi không còn xu dính túi đến phải đi… tự sát! Thật nhục nhã xấu
hổ làm sao! Cũng may, nhờ tự sát mà tôi gặp được nàng
Dẩu sao, tôi quyết không muốn bỏ qua cơ hội được ở bên một cô nàng xinh
đẹp như Hân, vào lúc này, bất chấp nàng có chồng con hay không tôi vẫn muốn có
nàng. Vào lúc chùng tôi chuẩn bị cho cuộc truy hoan mang mầu sắc lãng mạn,
tương tự như mấy bộ phim “đen” mà tôi thường hay coi lúc nửa đêm, thì tiếng
chuông bỗng vang lên từ chiếc điện thoại nàng để trên bàn. Ai đó đã báo cho Hân
biết đứa con trai của nàng đã bị bố nó bắt đi. Nghe tin, Hân bủn rủn tay chân,
phải mất một lúc sau nàng mới bình tỉnh trở lại. Hân hớt hãi đi tìm con của
nàng. Tôi chạy theo Hân một lúc thì đến một nơi mà tôi thấy rất quen. Đúng rồi!
Đó là nơi có chiếc cầu cao tôi từng đứng đó gieo mình xuống dòng sông đục ngầu
dưới kia. Không thể tin được, tôi và Hân choáng ngợp khi trông thấy người đàn
ông tôi đoán là chồng của Hân đang đứng trên bục cao của cây cầu cùng với đứa
con trai. Có vẻ như họ sắp nhẩy xuống tự sát! Nếu đúng như vậy thì ngày hôm nay
đúng là ngày của những kẻ ngu xuẩn, giống như tôi, kẻ muốn chết lãng nhách!
Thật tội nghiệp cho Hân khi phải chứng kiến cảnh này, nàng gần như
tuyệt vọng trước anh chồng đang toan tính làm điều dại dột. Người chồng hăm dọa,
nếu Hân không quay về anh ta sẽ ôm đứa con nhẩy xuống sông ngay lập tức. Hân
gào lên chửi rủa hắn, nhưng rồi nàng cảm thấy hối hận, nàng van xin hắn đừng
giết chết đứa con, nó không có tội gì, mọi tội lỗi là do nàng. Hân hứa sẽ quay
về. Tôi chợt hiểu ra,dẫu sao Hân vẫn là người mẹ tuyệt vời, với nàng đứa con
vẫn như một báu vật. Và sư có mặt của tôi lúc này chẳng khác gì mồi lửa gần bên
bình gas đang bị xì. Vậy nên tôi lập tức bỏ đi. Tôi bỏ đi trong hy vọng rằng
chồng Hân sẽ kịp nghĩ lại, mong họ đừng làm điều ngu xuẩn như tôi đã từng làm
Đêm đó, tôi lê lết trên bãi biển vì chẳng còn một xu dính tùi. Tôi muốn
mua rượu uống cho thật say, để tôi có thể quên đi mối tình chóng vánh giửa tôi
và Hân nhưng không biết phải làm sao. Tôi lại thấy đói cồn cào ruột gan và cứ
thế bước đi, tôi đi mãi chẳng biết về đâu.
Hóa ra tôi tự lần mò về đến nhà vào lúc nửa đêm. Trong màn tối mịt mù,
tôi thoáng trông thấy hai bong người vẫn đang ngồi trước cửa nhà. Nhìn kỹ, tôi
nhận ra vợ tôi và đứa con trai đang ngồi trên ghế đá trước nhà tựa đầu vào nhau.
Tôi biết họ đang oán hận tôi! Có thể họ đang chờ gặp tôi để lôi tôi ra công an.
Nhưng vào lúc này, tôi đang đói rã ruột, lại thêm nỗi nhớ thằng con trai đến
phát điên lên, chỉ cần nhìn thấy nó thôi tôi cũng hả lòng dạ. Bây giờ, tôi chỉ
muốn gặp đứa con một lần rồi muốn ra sao thì ra. Nghĩ đến đó tôi mạnh dạn bước
vào sân nhà
Vừa trông thấy tôi, thằng con trai đang ngồi gục đầu bên mẹ bỗng choàng
dậy chạy ào đến ôm lấy tôi òa khóc : “ Sao bố đi lâu quá không về với con! “.
Tôi ôm chặt lấy nó lòng đau như xát muối. Vơ tôi đứng chết lặng nhìn tôi tay
gạt nước mắt. Tôi định đến xin lỗi nàng, thì cha tôi từ trong nhà bước ra.
Trông thấy tôi ông không giấu được xúc động, nghẹn ngào, ông nhào đến …ôm chặt
lấy thằng con, Bố tôi nói, từ lúc tôi đi cả nhà ngày nào cũng ra sân ngồi ngóng
chờ tôi trở về, hôm nay cũng vậy, bố tôi mệt nên đi nghỉ sớm, vợ con tôi vẫn
ngồi chờ tôi trên ghế đá “ Sao lại như thế! Một thằng ôn vật như con thì có
đáng gì để cả nhà phải ngồi trông chờ nó, hả bố!” Tôi nói với bố tôi như vậy cảm
thấy mình chỉ muốn chui đầu xuống đất. Nhưng con trai tôi vui mừng hơn bao giờ
hết, bởi nó trông thấy bố vẫn mạnh khỏe trở về. Bố tôi nói ngày mai sẽ làm tiệc
ăn mừng
Buổi trưa hôm sau, khi cả nhà quây quần, vui vẻ ăn tiệc mừng.Vợ tôi vẫn
chưa nói gì với tôi. Đang ăn bỗng nàng bỏ đi đâu đó. Tôi đi tìm vợ thì thấy
nàng đang quỳ chắp tay trước tượng Đức Mẹ. Lát sau, vợ tôi quay ra, trông thấy
tôi nàng chạy đến ôm chặt lấy tôi. Nàng chỉ nói một câu duy nhất : “ Cám ơn
Chúa và Mẹ Maria“. Tôi cảm thấy vơ tôi vừa bật khóc sau khi nói câu ấy. Nàng kể,
từ lúc tôi bỏ đi không đêm nào hai mẹ con không quỳ trước Đức Mẹ cầu nguyện cho
tôi, mong ngày tôi quay về.
Nghe vợ nói tôi chợt nhớ lại tất cả, từ lúc lao mình xuống dòng sông
chạm vào thằng bé sắp chết đuối tôi giờ đã hiểu vì đâu, động lực nào khiến tôi
ra tay cứu thằng bé, để rồi nhờ đó tôi đã tự cứu mình, có phải chính Đức Mẹ đã
khiến tôi làm như vậy, vì Mẹ muốn cứu lấy linh hồn tôi. Khi tôi vào khách sạn
với Hân, chuẩn bị ngoại tình, thì cũng chính Mẹ khiến tôi phải rời xa người đàn
bà đó. Tất cả, chắc chắn có bàn tay của Mẹ khi tôi hiểu rằng đêm nào vợ tôi
cũng quỳ trước Mẹ cầu nguyện cho tôi …
Chỉ nói riêng về đứa con thơ ngây thiếu vắng tình cha thôi tôi cảm nhận
mình đã quá tàn nhẫn rồi, việc người cha từ chối cuộc sống đã là một điều sai
lầm không thể chấp nhận được. Tôi không nhận ra được rằng đứa con trai lành
mạnh của tôi chính là món quà quý báu mà tạo hóa trao ban. Dù cho chúng tôi
đang thiếu thốn, ngôi nhà chúng tôi vẫn cũ kỹ rách nát, vợ con tôi vẫn bình an như
hôm qua là quá đủ! Tôi cám ơn Chúa ví mình đã khác, đã đổi mới. Bây giờ tôi mới
hiểu ra ” hạnh phúc tiểm ẩn trong chính tôi bấy lâu nay mà tôi lại muốn lánh xa
nó “. Có lẽ với cuộc sống như vầy vẫn có thể sống vui…”. Và như thế, tôi nhận
ra bổn phận và trách nhiệm của mình. Tôi có thể mang lại niềm vui cho vợ con
tôi và cả cho người khác. Tôi cám ơn Chúa một lần nữa cuộc sống có ích cho cuộc
đời vẫn là trên hết
Mã số: 16-027
NGÀY TRỞ VỀ
Đúng vào ngày tôi trở lại giáo xứ Bảo Lâm sau mười hai năm xa cách là
ngày lễ Kính Thánh Augustino mà lẽ ra hôm nay tôi có mặt trong buổi Lễ Kính
long trọng này. Thế nhưng, vào lúc này, đứng trên ngọn đồi lộng gió nhìn đăm
đăm về hướng ngôi Nhà Thờ Bảo Lâm vẫn nét cổ kính như ngày nào, từ tháp chuông
Nhà Thờ đến cây Thánh Giá màu trắng rực sáng dưới ánh nắng mặt trời, lòng tôi
bỗng quặn thắt một nỗi buồn sâu thẳm
Đứng lấp ló ngoài cánh cổng nhà xứ, tôi dáo dác nhìn quanh, không thấy
bóng người nào. Tôi nôn nóng muốn gặp cha xứ ngay bây giờ, nhưng không thấy
ngài đâu. Khu khuôn viên nhà xứ rộng rãi thoáng mát im ắng nhơ tờ. Mùi hoa hồng
thơm ngát lan tỏa ; mấy khóm cúc trắng xen lẫn những bụi hoa vàng dày đặc dọc
theo lối đi nổi bật cả góc vườn. Bên cạnh đài Đức Mẹ Tôi thấy một nam thanh niên
còn trẻ đang đứng ngơ ngác. Tôi đinh quay trở ra thì anh chàng kia bỗng cất
giọng sang sảng :
- Con chào Cha!
Tôi giật mình,quay lại nhìn chàng thanh niên có nụ cười tươi khoe hàm
răng lấp lánh
- Anh là ai? Sao anh biết tôi?
- Dạ …con đoán vậy thôi. Nhưng nhìn người con biết ngay không phải là
giáo dân vùng này, phải là một linh mục mới đúng!
Tôi bật cười trước câu nói quả quyết của chàng thanh niên
- Không, anh lầm rồi! Tôi ở Sài Gòn mới ra, không phải linh mục đâu
Anh thanh niên ra vẻ ngỡ ngàng liền đổi giọng
- Sao trông bác giống linh mục vậy? Cháu xin lỗi đã nhìn lầm!
- Không có gì! À …làm ơn cho hỏi thăm. Tôi muốn gặp cha xứ, anh có thấy
ngài đâu không?
- Dạ không thưa bác. Cháu cũng đang muốn gặp cha
- Vậy à!
- Dạ! Cháu là dân ngoại đạo ở làng bên cạnh. Cháu muốn theo đạo Kitô
đến xin cha rửa tội cho cháu
- Ồ!
Tôi kêu lên một tiếng như vừa bị ai đó thụi cho một cái. Nhìn anh chàng
từ đầu đến chân tôi buột miệng hỏi
- Anh biết nhiều về Chúa Giêsu chưa mà muốn xin cha rửa tội?
- Dạ, cháu chỉ biết chút chút thôi bác. Cháu nghe Cha xứ giảng nhiều về
Chúa Giêsu, nhưng thú thật cháu chưa hiểu nhiều lắm
- Nếu vậy thì chưa đủ đâu! Nhưng thử hỏi anh một câu nữa nhé, anh có
thể nói cho tôi biết Chúa Giêsu sinh ra ở đâu không?
Bỗng dưng bị tôi sát hạch khiến chàng trai bối rồi
- Cháu …cháu không nhớ rõ lằm. Cháu có tham dự vài khóa giáo lý trong
nhà xứ, nhưng cháu lại quên mất!
- Thế thì hỏng rồi! – Tôi tỏ vẻ thất vọng – Anh cần phải học giáo lý
nhiều hơn nữa. Đã theo đạo thì cần phải học giáo lý càng nhiều càng tốt, như
vậy anh mới có thể hiểu nhiều về Thiên Chúa …
- Dạ vâng! Vậy …chắc là …bác đây hiểu rất rõ về Chúa Giêsu?
Đến lượt anh ta hỏi lại khiến tôi trơ mắt nhìn anh. Bỗng anh ta cúi
chào tôi
- Dạ, cháu xin phép, cháu phải
về nhà có chút việc, một lát cháu quay lại gặp cha xứ sau …Cháu rất muốn tìm
hiểu nhiều về Chúa Giêsu, cháu biết bác hiểu rõ về Ngài, lát nữa quay lại cháu
xin bác giải thích cho cháu được không ạ?
- Được, được…- Tôi cười vồn vã – Nếu có dịp gặp lại anh bạn tôi sẵn
sàng
Dạ, cháu hiểu rồi. Cháu chào bác
Chàng trai đi rồi tôi vẫn còn đứng thộn người ra, trong đầu miên man
nghĩ ngợi. Bởi, hình như tôi vừa làm sai điều gì đó tôi luôn vấp phạm, đôi khi
tôi quên khuấy đi cả những điều tôi luôn tự nhắc mình cố gắng hạn chế sai lầm
càng nhiều càng tốt. Bao nhiêu lần tôi tự hỏi, đã xét mình kỹ chưa mà đã vội
cao giọng dạy dỗ người khác! Đây có lẽ là điều khó nhất với một kè từng được
coi là “ đứng sát bên Chúa” như tôi, bởi
lòng kiêu ngạo như một con quỷ luôn ẩn náu trong lòng tôi, chỉ chờ tôi sơ hở là
nó tấn công ngay. Thật khó lòng tống nó ra khỏi người tôi .
Trở về ngôi làng xưa sau thời gian dài, tôi tưởng đâu sẽ có được những
phút giây hân hoan khi gặp lại những con người xưa kia trong ngôi làng bé nhỏ
này ; nơi từng gia đình nhỏ ; từng con người còn rất nghèo khó trong ngôi làng
đầy khốn khổ đó ; đó là những bác nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng
cho trời, ngày ngày cặm cụi trên cánh đồng cháy nắng ; những bà mẹ lam lũ vất
vả ngày đêm lo từng bữa ăn giấc ngủ cho lũ con thơ vẫn in đậm trong lòng tôi ;
những con người đơn sơ mộc mạc ấy dù vất vả thế nào chiều đến vẫn lũ lượt kéo
nhau đến Nhà Thờ tham dự Thánh lễ, đọc kinh, cầu nguyện thật sốt sắng.
Thoáng nhìn vào căn phòng nhỏ, nơi tôi thường quỳ gối cầu nguyện hàng
giờ trước Chúa ngày nào. Tôi nhớ mình nói nhiều với Chúa. Có lúc tôi khóc với
Ngài. Nhưng bây giờ, nếu như có ai đó chợt hỏi tôi từng nói gì và cầu nguyện gì,
thậm chí vì sao tôi khóc với Ngài. Thú thật, tôi không sao nhớ được! Song, có
lẽ, đó là những lời tự biện, phân trần với Chúa nhiều hơn là những lời sám hối!
Khi tôi còn đang đứng thờ thẫn, chợt nghe tiếng cửa kẽo kẹt phía sau
bức tường màu đỏ sẫm, nơi có tượng Đúc Mẹ đứng giang hai tay như muốn ôm lấy
đàn con tội lỗi. Cánh cửa mở ra, tôi thấy cha xứ chậm rãi bước vào rồi quay
lưng tư từ đóng cửa lại. Bất chợt trông thấy tôi ngài bỗng khựng lại, còn tôi
đứng đó, vẻ bối rối, ngượng nghịu
- Ô …có phải …Hoàng không nhỉ? – Cha xứ gỡ kiếng nhìn tôi – Đúng rồi,
đúng là Hoàng rồi!
- Dạ vâng …con là Hoàng đây, thưa cha!
Tôi vui mừng tiến lại bắt tay cha xứ. Nhưng ngài biểu lộ niềm vui còn
hơn tôi tưởng. Ngài không bắt tay tôi nhưng ôm chặt lấy tôi thật thắm thiết.
Điều này khiến tôi thấy lạ, bởi tôi biết ngài trước kia từng là người khó tính
nhất ở đây. Tôi cứ ngở. ngày trở lại đây của mình chỉ là một cuộc đón tiếp nhạt
nhẽo hoặc những lời trách móc của cha. Nhưng không, tôi chưa bao giờ thấy cha
xứ vui đến vậy
- Trời ơi! Không thề ngờ có ngày
gặp lại cựu linh mục phụ tá tại đây! – Cha xứ lại ôm lấy tôi một lần nữa rồi
ngài nói giọng xúc động – Vào đây, vào nhà đi rồi muốn gì hãy nói
Cha xứ cầm tay tôi lôi vào căn phòng khách nhỏ ấm cúng. Nỗi vui mừng
càng hiện rõ trên gương mặt ngài, như thể lâu lắm rồi ngài mới gặp lại người
thân của mình. Căn phòng khách vẫn như xưa, xung quanh vẫn bài trí đồ đạc,
tranh tượng gọn gàng ngăn nắp như cách nay mười mấy năm tôi từng ở đó
Cha xứ nhanh nhẹn với tay lấy chiếc bình trà đã pha sẵn còn nóng hổi
rồi rót ra hai tách. Mùi trà gừng thoang thoảng bay vào mũi tôi một mùi thơm dễ
chịu, ngất ngây, mùi của một thời ký ức xa xăm, khiến tôi càng thêm nhớ những
ngày còn ở đây, cũng tại căn phòng quen thuộc này, khi ngoài kia tiết trời đông
về, gió bấc thổi luồn qua khe cửa lạnh thấu da, có bình trà gừng nóng ngồi nhâm
nhi thưởng thức mới thấy thú vị làm sao. Thế nhưng, vào lúc này đây, dù tiết
trời ngoài kia khá lạnh, song tôi ngồi đó lòng như lửa đốt
- Thưa Cha con…con xin lỗi Cha..- Tôi cất giọng run run
Cha xứ khoát tay
- Thôi, chuyện cũ rồi, bỏ qua đi anh Hoàng, không ai nợ ai điều gì hết!
Nếu anh cảm thấy có lỗi anh hãy xin lỗi Chúa
Cha xứ nói và chỉ tay lên bức ảnh Chúa Lòng Thương Xót, nét mặt ngài
tươi vui hơn lúc nào hết
Tôi lấy trong túi ra chiếc phong bì
- Thưa Cha. con gửi lại cha số tiền … con …
- Thôi, được rồi anh Hoàng. Ai cũng có lúc sai lầm. Nhưng hôm nay tôi
thật vui mừng khi thấy anh trở lại đây…
Cha xứ nói giọng đầy hân hoan, còn tôi, mồ hôi trán bắt đầu rỉ ra
- Vâng …con không thể không trở lại đây, vì con còn nợ Cha rất nhiều
…Thưa Cha..số tiền này
- Không – Cha xứ lại cắt ngang lời tôi – không nhắc chuyện quá khứ nữa.
Còn số tiền anh đưa cho ban điều hành giáo xứ đi, tôi đã quên hết mọi chuyện từ
lâu rồi. Hôm nay anh ở đây dùng cơm với tôi nhé. Đừng nghĩ ngợi gì nữa
Chưa kịp ngồi chuyện trò với cha, khách lại kéo đến thăm cha đầy nhà.
Tôi vội xin lỗi cha bước ra ngoài để ngài tiện tiếp đoàn khách, hình như cũng
vừa từ xa đến. Đi dạo quanh vườn nhà xứ, tôi thoáng nghe tiếng cười nói ồn ào,
khiến tôi liên tưởng đến những ngày còn làm việc mục vụ tại đây. Khách ghé thăm
phần nhiều nhờ Cha xin lễ cầu nguyện cho một linh hồn nào đó, kèm theo những
bao thư tiền xin lễ và cả tiến biếu riêng cha …
Ngày đó, khi vừa tốt nghiệp khóa thần học từ nước ngoài trở về, tôi lập
tức bắt tay vào việc củng cố phát triển giáo xứ, làm thế nào để lôi kéo nhiều
người ngoại vào đạo Công Giáo và giúp biến đổi những giáo dân sống xa Chúa,
nguội lạnh trong việc đi tham dự Thánh Lễ, cầu nguyện …Tôi đã cật lực truyền bà
đức tin cho mọi người, giúp họ có được đời sống đạo tốt hơn. Khốn thay, trong
khi truyền bá cho mọi người lối sống đạo tốt, tôi càng ngày càng ít dành thời
gian cho việc cầu nguyện, chăm lo đời sống Đức Tin của chính mình. Tôi miệt mài
trong những suy nghĩ, ưu tư về những con chiên tội lỗi. Tôi lao vào các thư
viện tìm tòi, rồi viết sách về các tội lỗi mà con người luôn mắc phạm. Những
sách tôi viết được bề trên, giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có lúc tôi tưởng đã
gặp được Chúa, Ngài luôn ở bên tôi, giúp tôi trở nên một linh mục hoàn hảo,
Nhưng càng nổi tiếng bao nhiêu tôi càng xao lãng đời sống cầu nguyện bấy nhiêu,
tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục
giảng.
Có những bài gỉang tôi biết Chúa
thường nhắc nhở con chiên mỗi ngày “"Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình,
vác thập giá mình mà theo Thầy?" (Mt 16,24)” ; “ Phúc cho ai có tinh thần
nghèo khó …Tôi biết. Song thực tế, mọi điều tôi rao giảng trước giáo dân hằng
ngày, miệng tôi nói ra nhưng tôi chưa bao giờ thực hiện được “ Phúc cho ai có
tinh thần nghèo khó …” Tôi tự ý sống theo ý mình. Chỉ riêng căn phòng của tôi
thôi đã tràn ngập những thứ xa hoa phù phiếm. Tôi tự thiết kế cho mình căn
phòng khang trang đầy đủ tiện nghi như một phòng hạng sang trong khách sạn VIP.
Tôi lố bịch đền độ mỗi lần đến thăm các sơ, trong khi các chị ăn uống đơn giản,
ngủ giường chiếu, thì tôi được các sơ tiếp đải trọng thị, được ngủ giường nệm
và ăn uống không thiếu một món ngon nào
Tôi cả gan chống lại bề trên, thậm chí vượt quyền cha xứ. Tôi tham vọng
muốn xây lại Nhà Thờ cho thật đẹp, thật to, có thề nói tôi ao ước muốn có một
Ngôi Thánh Đường lớn nhất vùng. Thế nhưng, Cha xứ đã kiên quyết cản tôi lại, vì
ngài cho rằng gíao xứ còn nghèo, giáo dân chưa đông thì chưa nên xây Nhà Thờ
lúc này. Ngài khuyên tôi hãy dùng tiền giúp đỡ người nghèo sẽ có ích hơn. Có lẽ,
do bị quỷ xui khiến nên tôi đã to tiếng với ngài. Thậm tệ hơn, trong thời gian
đó, có một phụ nữ vốn là giáo dân đến gặp tôi ngỏ ý muốn giúp tiền để tôi xây
Nhà Thờ. Tôi thường xuyên đi với phụ nữ đó và đã bị bà ta quyến rũ khiến tôi mê
đắm trong ái tình. Cha xứ biết chuyện nhiều lần khuyên tôi nhưng tôi bỏ ngoài
tai tất cả. Tôi quyết định rời khỏi giáo xứ chạy theo tiếng gọi người đàn bà
kia cùng số tiền tôi lấy đi của nhà xứ …
…
Trưa hôm đó, cha xứ mời tôi dùng cơm với ngài. Ngài thiết đãi tôi bữa
cơm đạm bạc đậm tình cha con. Trong suốt bữa ăn Cha chỉ toàn nhắc lại những
việc làm tốt của tôi trước kia, không hề đá động gì những việc làm sai trái,
xấu xa của tôi. Tôi ngồi nghe từng lời khuyên răn của ngài, lòng tự hỏi,liệu
tôi có rút ra được gỉ cho mình! Hay những lời cha …sẽ lại tan theo mây khói!
Tôi nghĩ, để sống được như cha có lẽ còn cả một quãng đường dái xa tít.
Tôi khổ đau day dứt vì những lời cha khuyên, vì cuộc đời phức tạp của mình. Cha
xứ yên vui thầm lặng trong địa vị khiêm nhu của ngài. Ngài nhỏ nhẹ khuyên tôi :
chẳng cần phải làm gì cho cao siêu vĩ đại. Cứ lấy lòng khiêm tốn ra mà suy xét
mọi việc trước sau, và luôn làm việc phục vụ tha nhân trong tình mến Chúa dạt
dào. Tôi đã khóc một lần nữa, bởi những điều tưởng chừng như đơn giản ấy sao
tôi vẫn cứ mãi loay hoay, vẫn mãi vụng về … Có lúc tưởng đâu tôi đã tỉnh ngộ!
Nhưng không, tôi thấy mình còn u mê dại khờ lắm!
Lúc ăn cơm xong tôi gặp lại chàng thanh niên có nụ cười và hàm răng lấp
lánh ban sáng. Anh ta kể cho tôi nghe vì sao anh lại muốn theo đạo Công Giáo.
Anh ta nói như thế này : ‘ Cháu rất tiếc vì mình đã không sớm biết về Chúa
Giêsu. Ba năm trước, cháu là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút
đầu lút cổ. Gia đình cháu bị khủng bố buộc phải bán nhà đi trả nợ, ra ngoài ở
nhà thuê. Mỗi tối, khi cháu trở về nhà, vợ và các con trông thấy cháu không
muốn đến gần. Thế mà, bây giờ thì cháu đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả
được hết nợ nần, mua được căn nhà nhỏ. Gia đình cháu đã tìm lại được hạnh phúc,
các con cháu ngông ngóng chờ cháu về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những
điều này, không ai khác hơn, chính Chúa đã làm cho cháu. Và đó là tất cả những
gì cháu biết về Người...’
Mã số: 16-030
SÁM HỐI
Bóng dừa chao nghiêng bên thềm ngập ngụa nắng chiều, mấy giọt buồn trưa
vẫn còn vương vấn đâu đó trên mái nhà, ông dụi mắt cố nhìn xuyên qua cái chói
chang le lói giữa từng nếp lá đó, thở dài đánh thượt. Ông thấy đắng họng. Mấy
ly rượu nhạt ban trưa vẫn còn ngậy mùi từ trên khóe miệng, ông đưa tay quệt
ngang mép, chặt lưỡi, đói. Lão Hùng điên chệnh choạng đứng lên từ đống quần áo
cũ nhàu nát, cái ổ chó mà mấy đứa trẻ vẫn thường nhổ toẹt nước bọt vào đó khinh
bỉ, nó vẫn là cái nơi ấm áp nhất của ông, của cuộc đời ông còn sót lại. Xiêu
vẹo cố bước qua bậc thềm cũ nát, ông tựa cửa, đưa mắt nhìn ra xa đó, nơi mà ông
luôn muốn được tìm về, nhưng vẫn luôn rất sợ phải về. Nơi mà ông đã mất đi
chính mình. Mất đi tất cả.
***
Anh hứng khởi đạp xe qua mấy con đường dốc, trong lòng ngập tràn hạnh
phúc đang rung lên từng hồi theo cái đong đưa của vật tròn tròn nho nhỏ nơi túi
áo, đang nhấp nhô theo từng nhịp lưng còng ướt sũng mồ hôi của anh học trò trẻ
tuổi. Anh đang mang đến cô lời cầu hôn chân thành của chàng trai 18 lần đầu
được yêu, và lần đầu nhận được cái gật đầu miễn cưỡng của bố mẹ, chỉ vì “Không
có cô ấy, con sẽ chết!’. Bố mẹ anh chẳng thể cản được. Không ai có thể ngăn cản
được một con tim đang yêu cả, dù đó là một người trưởng thành hay chỉ là một
cậu nhóc mới lớn.
Nhưng nụ cười anh chưa kịp bừng sáng, đã vội tắt ngúm.
- Anh, em có thai!
- Em đùa à?
- Không, em nói thật.
- Em đùa không vui đâu! Không lẽ em có thai nhờ Thiên Thần truyền tin
như Đức Bà sao? Haha
Cô nhìn anh bằng đôi mắt kinh ngạc, cái kiểu cười này đã làm cô đau đớn
khủng khiếp cái đêm mưa gió đó, khi anh uống say với đám bạn học và đưa cô về
nhà mình. Hôm nay, nó lại một lần nữa làm cô đau đến nghẹt thở.
- Anh, anh không nhớ sao?
- Nhớ gì? Tôi đã làm gì em đâu! Hay là…
- Anh! Rõ ràng là hôm đó…
- Này cô, dù là chúng ta yêu nhau, nhưng đừng đem mấy chuyện này ra vu
cho tôi nhá! Tôi đã bảo là đêm đó tôi có làm gì cô đâu, tôi ngủ ở nhà tôi còn
gì! Cô dừng ngay cái thói bịa chuyện ấy đi!
Đôi mắt cô như dại đi, và cái người cô yêu đang đứng trước mặt kia
không còn là anh nữa. Cái đêm kinh hoàng đó, và cái khốn nạn của thằng đàn ông
đó, nó bóp nát trái tim cô, cơ thể cô, bóp nát luôn cả niềm tin cô vẫn luôn
dành cho anh. Làm sao anh có thể tàn nhẫn và dã tâm đến mức như vậy? Cô đã ép
mình phải bỏ qua cho anh chuyện đó, nhưng cái cách anh thoái thác trách nhiệm
này, cô không thể tha thứ được. Và một cái tát tuy không đủ mạnh nhưng vẫn đủ
gây sự ngạc nhiên nơi anh, đã được cô dứt khoát tặng vào má trái của anh như
một sự cắt đứt. Tất cả đã sụp đổ.
Nhưng tất cả như mới bắt đầu trong tâm trí người con trai trẻ tuổi bốc
đồng nông nỗi đó. “Tại sao em đánh tôi? Tôi tin chắc tôi không làm gì phạm đến
em, em đã vu oan cho tôi thì thôi, đã vậy còn mang cái thai hoang ấy về gán lên
tôi, nay lại dám đánh tôi!” Tia giận dữ sáng lòa cả mắt, nó như ngọn lửa địa
ngục, kéo toàn bộ bóng tối bao trùm lên trái tim anh, và cuộc đời anh. Anh đánh
trả cô thật mạnh, đến nỗi cô ngã nhào vào chiếc xe đạp anh đựng cạnh đó. Cô lồm
cồm bò dậy, ngay lập tức tặng cho anh một tia nhìn khinh khi và ghê tởm. Điều
đó càng làm anh điên tiết. Nên khi cô vừa gượm quay đi thì anh đã kéo tay cô
lại hết sức thô bạo mà hét vào mặt cô:
- Là thằng nào? Thằng nào?
…
- LÀ THẰNG NÀO?
Mỗi một câu “Thằng nào” được thốt ra từ anh là một cú đấm thật mạnh vào
đầu cô, vào mặt cô. Cô ngã dúi dụi xuống bãi cỏ xanh mượt đang rơi dần từng
giọt nắng. Và cô cũng đang rơi dần vào tuyệt vọng và hoảng sợ, cô không kịp la
lên một tiếng. Anh siết cô trong đôi tay rắn chắc. Siết thật mạnh, thật mạnh.
LÀ THẰNG NÀO MÀ DÁM CẮM SỪNG LÊN ĐẦU TAO?
***
Chuông đánh liên hồi từ nhà nguyện nhỏ xíu lụp xụp đầu làng. Lão như bị
kéo ngược về hiện tại. Hôm nay chủ nhật à? Hay là có người chết? Mặc kệ chúng
bây!
Lão lê lết đôi chân mỏi mệt và lã đi vì đói ra phía con đường nhỏ dẫn
đến đầu làng. Mấy đứa trẻ con được mẹ mặc cho áo trắng mua từ Tết, đóng thùng
hẳn hoi, nô nức đi Lễ chiều, vừa nhìn thấy hắn đã hét lên: “Ông điên!”, “Ông
Hùng già điên!” rồi cười ngặt nghẽo… Những người mẹ vội vã thúc vào lưng tụi
nhỏ, giục chúng bước nhanh kẻo không kịp giờ Lễ, mắt không quên liếc nhìn e
ngại và tỏm lợm về phía lão. Lão lườm bọn trẻ, miệng khè khè vài tiếng, rồi
văng tục liên hồi. Lão hét, lão tru, lão chửi và rồi lão cười, tiếng cười ma
dại mà đến cả bản thân lão còn thấy kinh sợ mỗi khi đêm về. Nhưng như để trả
đũa lại cuộc đời tàn nhẫn, trả đũa lại Chúa Trời giả dối đã đẩy lão vào chốn
bần cùng, lão cứ cười và cứ chửi. Cười và chửi cả thế giới này, cái thế giới
chỉ có bóng tối!
Buổi Lễ chiều nơi cái làng bé nhỏ nghèo nàn ấy, cũng như những buổi Lễ
chiều khác, vẫn diễn ra giữa những con người lam lũ và xác tín, giữa những dối
trá và hơn thua của cuộc đời ngoài kia. Không ai nói một câu nào về lão, cũng
không ai muốn than phiền hay trách móc thêm một chút nào về lão, vì sự ấy đã
quen rồi. Họ chỉ biết cố gắng dâng mình lên Đấng thiêng liêng của họ, dâng cuộc
đời nghèo khổ và những ước mơ no đủ. Không ai muốn quan tâm đến lão. Tiếng kinh
cầu hòa cùng tiếng chửi rủa của lão vang xa, vang xa.
***
Ngày hôm đó nắng rất đẹp. Anh bước ra khỏi căn nhà của bố mẹ, hít một
hơi thật sâu cái không khí của sự tự do. Cuộc sống tù tội 16 năm đã dạy anh quá
nhiều điều, anh trưởng thành hơn, biết suy nghĩ hơn, và quan trọng là anh đã
biết sợ hãi nhiều hơn. Sợ con người và sợ cuộc đời. Những năm dài sống trong
tủi nhục của một kẻ tù chung thân vì tội giết người, anh thấm thía cái gọi là tự
do và được tôn trọng, thấm thía cái cảm giác hối hận và luyến tiếc, thấm thía
sự khao khát được làm lại cuộc đời và thề rằng sẽ không bao giờ quay trở về cái
nơi đó nữa.
Anh vẫn luôn nhớ về cô và nỗi đau trong trái tim anh suốt 16 năm. Dù đã
nhiều lần anh tìm đến nhà và mộ cô để xin tha thứ, nhưng lần nào anh cũng bị
xua đuổi. Nhưng anh vẫn luôn động viên mình hãy kiên trì, vì anh phải được họ
tha thứ thì lương tâm anh mới thanh thản. Sáng nay, anh định ra mộ cô thì được
cấp phép vào thăm người bạn thân trong tù, thế nên anh cùng vài người bạn quay
lại nơi đó. Nhưng lần này không phải với tư cách tù nhân, mà là một thân nhân,
một người lương thiện hẳn hoi.
Và ở đó, hôm đó, anh được gặp An.
Đôi mắt đó và sự thánh thiện dịu dàng đó, nụ cười đó và sự hài hước rất
duyên đó, anh như gã trai trẻ lần đầu được yêu năm xưa. Đôi mắt anh sáng lên,
trái tim anh rung động, anh không biết nên nói gì và làm gì, anh chỉ biết mỉm
cười, vì trước An, anh chỉ là thằng nghèo xác và vô dụng, lại mới ra tù, anh
không dám…
Nhưng dường như Chúa đang muốn bù đắp cho những tủi nhục và đau khổ mà
anh đã phải chịu đựng suốt bao nhiêu năm qua, nên đã mang An đến cuộc đời anh.
An quá hiền lành đến nỗi cô không hề chê bai hay khinh khi gì quá khứ của anh,
cô nhẹ nhàng và luôn dành cho anh những nụ cười thật thân thiện. Anh một lần
nữa đắm say trong mật ngọt của tình yêu.
- Anh ở trong đó vẫn đi lễ đủ hả?
- À, anh không được đi lễ đâu em, trong tù mà, đâu ai cho mình đi đâu.
Nhưng anh vẫn cầu nguyện hằng đêm đấy!
- Vậy, anh đã xưng tội chưa?
Đôi mắt An cười thật hiền từ chỉ để mong anh không tổn thương vì những
câu hỏi chạm đến quá khứ ấy của mình, nhưng với anh, nụ cười đó là tất cả. Anh
nhớ ra mình chưa từng xưng tội trong một thời gian dài. Anh cũng chợt nhớ anh
đã không cần đến Chúa trong suốt khoảng đời đó. Sự thù hận và tủi nhục đã khiến
anh quên mất Ngài.
Vậy là cứ mỗi chiều Chúa nhật dù nắng hay mưa, anh đều đến nhà An để
cùng đi lễ với cô. An trong sáng quá, và anh ngất ngây trong cái thứ hạnh phúc
anh tự dựng xây cho mình, thầm cảm ơn Chúa Trời đã ban cho anh cái hạnh phúc
quá đỗi ngỡ ngàng ấy, dù muộn màng. Nhưng việc xưng tội anh cứ lần lựa mãi…
Tình yêu âm thầm anh dành cho An cũng đến lúc không thể giấu kín, anh
hồi hộp chờ đến ngày được gặp cô, được trao cho cô tiếng yêu thương chân thành,
được đề nghị sẽ cùng cô đi hết cuộc đời dù gian nan hay bão tố, dù mạnh khỏe
hay yếu đau… Trong anh, mặt trời như lại mọc lên từ khô cằn, và ánh sáng của nó
đẩy lùi bóng tối cuộc đời đã chôn vùi anh tưởng chừng là mãi mãi. Anh lại một
lần nữa, ôm ấp cái nôn nao của chàng trai mới yêu lần hai, khấp khởi đến nhà An
trong cái nắng chói chang của một buổi trưa đầu xuân rực rỡ.
An đã đến nhà một người bạn, có lẽ là đi chúc Tết. May thay người bạn
ấy anh cũng có quen biết, thế là anh lập tức sang đó với An. Mọi người đón tiếp
anh rất ân cần, bố mẹ và cô bạn của An, cả An nữa, quây quần bên mâm cơm hết
sức ấm cúng. Nụ cười chưa bao giờ tắt trên môi anh kể từ khi anh được nhìn thấy
An đang ngồi trước cửa nói cười, và anh nguyện sẽ trọn đởi dành nó cho An. Cái
viễn cảnh thánh đường lung linh hoa trắng và nến sáng, có anh dìu tay An bước
vào thề nguyền dưới chân Đức Chúa, anh lơ lửng trên chín tầng mây.
Nhưng, anh như nhận ra sự khác thường giữa hai cô bạn gái này. Nụ cười
và ánh mắt họ dành cho nhau đó quá dịu dàng, quá thân thuộc, quá “tình tứ”. Anh
mơ hồ nhận ra An dành cho cô bạn của mình sự quan tâm đặc biệt, đặc biệt trên
hết những sự quan tâm của bạn bè bình thường. Họ gắp thức ăn cho nhau, họ nắm
tay nhau, thậm chí, họ ngả người vào nhau mỗi khi có ai đó làm họ cười, và nụ
cười ấy hạnh phúc biết bao!
Ôi, không lẽ…
Đôi mắt anh mờ đi khi nhận cái lắc đầu của An, ánh mắt thương cảm dịu
dàng của cô, thanh âm trong trẻo từ môi cô đang cố giải thích rằng cô chỉ xem
anh như người anh trai đáng kính, tất cả tan đi trong cơn mê muội phẫn nộ. Anh
nghe thấy có tiếng gào thét bên trong mình, “Chúng nó khinh thường mày, chúng
nó đồng tính, chúng nó bệnh hoạn, TRỜI ƠI, vậy mà lại dám từ chối mày, chúng nó
không đáng sống!”
Tiếng la ó hốt hoảng, tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng người kêu
cứu, và đôi mắt mở to kinh ngạc chìm trong máu vẫn nhìn chằm chằm vào anh, anh
sợ hãi, và anh bỏ chạy, chạy mãi, chạy mãi…
***
Lão cảm nhận rất rõ cơn đau nhói khủng khiếp đang đâm thủng nội tạng
của lão, và máu tuôn ra không ngừng từ từng đường gân thớ thịt. Lão rên xiết,
lão gầm gừ, cố gắng gượng dậy, nhưng cơn đau lại quật ngã lão. Lão nằm sóng
soài trên cái ổ hôi thối ẩm ướt, nhầy nhụa dịch nôn và phân. Đêm qua lão uống
rất nhiều, sau khi đã mắng chửi thỏa miệng và vòi vĩnh bà hàng nước một chai
rượu trắng, lão nốc hết sạch mà không ăn gì. Ảo ảnh nhòe nước mắt hiện về làm
lão đê mê. Những gương mặt, những nụ cười, những ánh mắt và những cái đụng
chạm. Lão lờ mờ nhìn thấy người yêu đang khóc lóc van xin lão, nhưng đôi bàn
tay của lão không chịu dừng lại, và cái thứ bên trong quần nó cứ muốn đòi thêm,
đòi thêm nữa. Lão lại mơ hồ nhìn thấy anh cán bộ quản trại đang giáo huấn những
lời cay nghiệt, những trận đòn của bạn tù, những lần đói ăn và những lần ngã
nhào xuống hố tự hoại nhà xí… Lão lại rên xiết, tiếng ư ử cứ không ngừng phát
ra từ cổ họng khô cháy. Lão lại nôn, lại tiêu ra rất nhiều máu. Lão đảo mắt
nhìn xung quanh, đưa tay cố xua đi hình ảnh cái nhà lao phủ rêu xanh mốc đang
vây lấy mình, lão định ngồi dậy, nhưng lão không thể làm gì được với tay chân,
chúng nó không chịu nhấc lên dù chỉ chút ít. Cơn đau lại hành hạ, lão kêu lên
một tiếng giữa ngôi nhà tồi tàn mong sẽ có ai đó đến cứu mình. Nhưng chẳng có
ai.
Lão lại chìm vào cơn mơ màng của âm thanh và ảo ảnh. Lão thấy mặt trời
như dị dạng đi, và mái tóc của An vừa bay ngang qua khuôn mặt lão. An cười thật
tươi, và giọng An yếu ớt, máu rỉ ra từ ngọn dao cắm nửa vời vào bụng. Lão hốt
hoảng, lão bỏ chạy. Lão vấp ngã, lão thấy An đưa tay đỡ lão, lão thấy cán bộ
chĩa súng vào lão, lão thấy những đôi mắt phán xét, những tràng cười ghê rợn,
những bàn tay thô bạo túm lấy lão… Lão chạy thục mạng, không kịp thở, không kịp
ngoái đầu. Lão đau đớn, lão sợ hãi. Lão hối hận.
Cái nắng ban trưa gay gắt làm lão khát khô. Lão vẫn nằm mê man trên cái
đống ướt mèm máu, miệng không ngừng gọi tên An. An đang ở đó, đưa tay ra cho
lão, cùng lão bước vào Nhà thờ. Tiếng nói trong trẻo dịu dàng vang lên xa xa
đâu đó như vọng về từ quá khứ, nhưng cũng thật gần như đang vang ra từ trái
tim, “Anh đi xưng tội nhanh đi, để lâu quá, Chúa không tha hết tội cho anh
đâu!”.
“Dạ!”
Lão hân hoan khôn tả, lão đâu muốn giết An, lão yêu cô nhiều lắm mà.
Rồi cô sẽ là của lão, hạnh phúc đó là của lão, chỉ cần lão xưng tội thôi. Lão
gắng gượng, lê lết cái thân nặng trĩu, lết bằng tất cả sức lực còn sót lại,
bằng tất cả sự mong đợi của An, lão cứ thế lê mãi, lê mãi.
Lão thấy Cha xứ chạy ra dìu lão, thấy mọi người xúm quanh lão, lão cảm
thấy có một dòng nước mát chảy vào cổ họng. Lão bừng tỉnh. Lão xin Cha cho lão
được xưng tội. Lão nhìn thấy Thánh giá Chúa treo cao, đôi mắt Ngài hiền từ nhìn
lão, máu rỉ ra từ trái tim đầy gai nhọn đó, nhưng Chúa vẫn rất nhân từ với lão.
Lão rơi nước mắt. Lão cười, cái nụ cười thật sự mà lâu lắm rồi lão đã không có…
***
Buổi chiều đó, người ta tìm thấy lão Hùng Điên nằm chết trên vũng phân
máu, đôi mắt mở hờ, tay nắm chặt Thánh giá treo trên cổ.
Buổi chiều đó, có tiếng chuông Nhà nguyện vang xa, vang xa…
Mã
số: 16-031
HI VỌNG
Buổi chiều rải nắng dài trên sông. Mấy giọt óng ánh loang ra, theo
con nước cuốn mãi về phía xa đó. Xuồng lá dập dìu đánh sóng, tay người chèo
thoăn thoắt, tiếng cười nói rộn rã. Mấy đứa trẻ vẩy nước vào nhau, cười tung
tóe. Còn mẹ chúng thì bực dọc chau mày, miệng la oai oái, nghiêng đầu né mấy
tia nước sông chực tát vào mặt, tay không ngừng tét vào mông mấy đứa nhỏ. Những
cô gái trẻ vừa nghiêng nón lá che nắng, vừa thầm thì mấy điều chi mà cười khúc
khích. Áo dài trắng phấp phới bay. Chiều nay đẹp quá!
Con Mén lóng ngóng ngửa cổ ngó miết ra mé sông. Nó nuốt nước miếng
ừng ực, tay vò vò vạt áo nhàu nát mấy miếng vá, chân cứ thập thò muốn phóng
xuống xuồng theo dòng người nô nức đi luôn. Hôm nay chiều Chúa nhật, người ta
đi lễ nhà thờ vui như đi coi hát. Nó léo nhéo với má nó:
- Lẹ má ơi, người ta đi hết rồi kìa!
- Từ từ con, để má bắt cái nồi cơm đã! Mà tắm chưa đó?
- Con tắm nãy giờ rồi. Mà năn nỉ hoài hổng chịu may cho người ta
cái áo dài, mặc cái áo rách hoài coi sao đặng má?
- …
- Mấy chị kia mặc áo dài trắng kìa! Chu choa, nó đẹp bá chấy, má!
Cái tà áo bay bay kìa má! Nón lá nữa má!... Má!
- Ờ, thấy rồi. Còn nhỏ mà đòi mặc áo dài gì hả con? Để lớn chút má
may cho!
- Mười ba tuổi mà nhỏ gì nữa má! Người ta bằng tuổi con mặc tràn
lan rồi! Mà…
Con Mén im bặt. Người ta mười ba tuổi rước lễ thêm sức hết trơn,
nó thì còn chưa được rửa tội, bon chen chi mấy cái áo dài. Nó mặc áo dài cho
đẹp chi mà vô đi lễ không dám nhìn lên, toàn nhìn xuống đôi dép. Má nó cũng
không dám cho nó vô nhà thờ, sợ bà nội nó đi ngang mà thấy là hai má con nó bị
đòn nhừ tử liền. Nó thở dài đánh thượt, nghĩ đời mình lận đận, khổ hơn cô Lựu.
Má ngó thấy cái mặt con nít ngồi thở dài coi xạo quá, khẽ đầu nó
cái nhẹ: “Tương tư gì đó cô nương! Thôi, đi, hông là trễ à!”.
Má lôi ra cái áo sơ mi trắng cũ mèm của má, má mới vá lại mấy chỗ,
giặt ủi sạch sẽ thơm tho, biểu nó thay đi. Cái áo cũ của má để dành lâu rồi với
nó bây giờ là cả gia tài, bởi dù rách vá mấy chỗ nhưng vẫn ngon lành hơn cái áo
màu cháo lòng nát bét của nó. Nó mừng rơn nhảy cẩng lên, rồi phóng cái ào vô
buồng thay áo, không khí sau lưng nó chưa kịp xáo động là nó đã phóng ào trở
ra, toe toét ngó má nó. Áo trắng đi lễ của má mà, cỡ nào cũng đẹp!
Trên con đường làng chiều nay có hai đôi dép tung tăng đi nhà thờ.
Má con Mén tuần nào cũng đi nhà thờ như vậy đó, thành cái lệ rồi.
Hồi nhỏ, mấy buổi chiều Chúa nhật thấy má tất bật lo cơm nước cho sớm, rồi lôi
nó đang chạy nhảy sau hè về tắm rửa, thay áo mới rồi dắt nó đi vô cái nhà thờ
đầu xóm Mắm dự lễ. Nó cứ thắc mắc hoài, má dắt đi vô đó chi, toàn nghe người ta
đọc cái gì buồn ngủ gần chết, mà tuần nào cũng bắt nó phải đi theo, nó năn nỉ
gãy lưỡi mà có khi nào má chịu tha cho nó đâu! Nó càng không hiểu khi mà có hôm
bà nội nó lôi má nó xềnh xệch từ nhà thờ về, vừa đi vừa chửi má ghê lắm, còn
lôi nó ra đánh mấy cái, hằn luôn mấy bàn tay lên cái mông đen thui của nó. Lúc
đó má khóc ròng ôm lấy nó, quỳ gối năn nỉ bà nội nó, hứa là không đi nhà thờ
nữa. Nó hỏi má hoài, bà nội hổng cho má đi mà, sao má đi chi hoài cho bà nội đánh
con vậy? Má rầu rầu nhìn nó, làm nó thấy nó có lỗi với má quá. Sao nó nói vậy,
khác chi nó lấy dao đâm má nó mấy cái luôn cho rồi! Nó biết chuyện mà!
Tía má lấy nhau tại má mang bầu anh Hai trước, nên lúc làm đám
cưới bà nội cứ liếc xéo má, miệng cười cười với bà con lối xóm vậy chứ trong
bụng coi thường má lắm. Nên tía nó đâu có được theo đạo của má, đâu có được rửa
tội, má nó đâu có được vô nhà thờ làm lễ cưới đâu. Đã vậy, bà nội còn bắt má bỏ
đạo. Bà nội nói: “Tụi bây thờ ông bà mình thôi, thờ ông này bà nọ chi! Không
cho đốt nhang ha, không cho lạy ha, không cho làm đám giỗ ha! Riết rồi thành
bất hiếu hết! Tao cấm nha, bây coi sao cho được đó! Tao mà còn thấy đi cái gì
lễ lộc chúa chiếc gì, tao đánh què giò à!”. Má nó khóc tới mờ mắt. Hồi sanh anh
Hai, rồi tới anh Ba, má khổ với bà nội lắm. Tới khi mang bầu nó, tía má nó ra
riêng, về ở xóm dưới, còn bà nội sức khỏe yếu nên về ở chung với cô Hai bên xóm
trên, má nó mới nhẹ thở được chút. Má sanh nó ra, lo cho hai anh nó lên thành
phố học chữ, nhà càng ngày càng rớt hết mồng tơi, nên nó không được đi học. Tía
nói, con gái học chi nhiều, lớn lên gả chồng đẻ đái, biết cơm nước là đủ rồi.
Nó buồn hiu. Má nó cũng buồn hiu. Nên má thương nó lắm. Từ hồi về xóm dưới ở,
má nó lén bà nội đi lễ được bữa nào là cho nó đi theo bữa đó.
Lúc mới đi lễ nó không hiểu gì mấy câu kinh đó, nên cứ ngủ gà ngủ
gật. Nhưng càng lớn nó càng thích. Thích mấy bài Thánh ca dễ thương (mấy bài
“Cầu cho cha mẹ” là nó thích nhất). Thích mấy đứa nhỏ trạc tuổi cũng theo ba má
đi lễ. Thích mấy chị mặc áo dài đứng nghiêm trang. Thích ông Cha xứ già, lần
nào đi lễ ra cũng xoa đầu nó, cho nó cục kẹo.
Lớn hơn chút, nó thích được bàn luận giáo lý với mấy đứa xóm Mắm.
Tụi nó ỷ được học giáo lý, tụi nó nổ banh nhà lầu, nó phải cãi lại cho đám kia
bớt nổ. Nó lại thích được rước lễ, thích quỳ gối trong nhà thờ, thích chính
mình được cất tiếng hát, được cao rao những câu kinh dù thuộc lòng mà chưa hiểu
hết nghĩa. Thích mặc áo dài trắng giống mấy chị em đồng tuổi, cầm nến trắng
bước lên đền thánh nhận bí tích Thêm sức, dù là nó chẳng hiểu Cha thêm sức gì
cho chị em đó, chỉ hiều lờ mờ, chắc thêm sức cho khỏe, cho đi lễ đều đều, cho
khỏi bỏ Chúa. Cái hiểu đơn sơ đó của nó mấy lần làm má rớt nước mắt. Má vui
buồn lẫn lộn. Nó nhìn thấy càng rầu thêm, má này, khóc chi khóc hoài!
Giờ lớn hơn chút nữa, nó lại thích đi lễ vì má nói, con đi lễ cầu
nguyện, cầu gì cũng được hết đó, Chúa sẽ ban cho con. Nó mở to mắt, linh dữ vậy
hả má! Vậy nên nó càng sốt sắng muốn đi lễ, dù là nó chưa xin gì lớn lao ngoài
món cá kho, ngoài con diều nàng tiên cá, ngoài cái áo mới đi lễ, nhưng bấy
nhiêu thứ đó thôi nó đã thấy yêu Chúa quá đỗi rồi! Má mừng trong bụng lắm,
nhưng cũng buồn lắm, làm sao cho nó được rửa tội bây giờ?
Má còn đang tính đường nói chuyện với tía, tía còn đang ngày ngày
trừng mắt ngó hai má con nó, theo kiểu: “Hai má con bị đòn chưa tởn hả?” Má
chưa kịp chờ tía gật đầu thì đã bị cơn đau nặng năm đó vật đến te tua.
Mùa mưa đó má bệnh nặng lắm, cứ sốt giật từng cơn suốt đêm, người
thì ướt mèm mồ hôi. Má vẫn than lạnh dù là Mén đã trùm lên người má cả cái mền
của nó, rồi nằm luôn lên giường mà ôm chặt lấy má, má cứ rên hừ hừ. Nó cuống
lên, quay vòng vòng như con bọ hung bị lật ngửa, hết lấy thau nước ấm tới lấy
khăn lau trán má, hết lấy mền tới chạy đi lấy ly nước cho má, hết chạy đi tìm
tía rồi lại chạy lên xóm trên tìm thầy Thạch, người nó thấm đầy nước mưa mà má
cũng không chịu bớt rên chút cho nó mừng. Má rên đã rồi má mê sảng, nói ú ớ gì
trong miệng không rõ. Lòng con Mén lúc này ướt hơn cả bộ đồ nó đang mặc, nước
mắt nó rớt xuống còn nhiều hơn nước mưa ngoài kia. Thầy Thạch nói má sưng phổi
nặng lắm rồi, không lên thành phố chữa là chuyến này không qua khỏi. Nó bấu vô
vai má nó mà lắc, mà lay, mà gọi má. Nó nhìn thầy Thạch đứng thì thầm với tía
mà mếu máo, má ơi!
Tía cứ châm hết điều này tới điếu khác, má thì vẫn còn mê sảng,
mắt nhắm chặt dù là nó kêu má bao lâu má cũng không thèm trả lời nó. Nó khóc
tới sưng bụp hai mắt, ngó tía hỏi, sao tía hông đưa má lên thành phố hả tía, má
chết cho coi! Tía thở dài. Nó sợ tía lắm, nó chỉ dám hỏi trong thinh lặng, nên
thấy tía thở dài, nó càng không dám lên tiếng, khóc cũng không dám khóc lớn. Nó
quỳ bên má, níu níu áo, kéo kéo cái mền như thể nó đang cố níu kéo chính má nó
quay lại vậy. Má im lặng. Tía im lặng. Ông trời thì tiếp tục gào thét.
Chợt Mén nhớ má từng biểu nó cầu nguyện, nói nó mà ngoan thì cầu
điều gì Chúa cũng cho hết. Nó phóng cái ào vô buồng má, lôi cuốn kinh nhỏ và
xâu chuỗi của má ra, lần mò đọc kinh. Mà nó đâu thuộc hết kinh, nó đọc được kinh
Lạy Cha, kinh Kính mừng với kinh Sáng danh là hết biết rồi, mấy mầu nhiệm thánh
nó đâu rành, thành ra cứ ba kinh ấy mà đọc miết, đọc miết. Tía ngồi trước hiên
nhà ngó vô, thấy nó lầm rầm trong miệng, cũng đoán được nó đang cầu nguyện, tía
xán vô định đuổi nó đi, giờ này mà còn tụng kinh gì nữa hả! Nhưng tía vừa bước
tới, chưa kịp lên giọng là nó đã ngước đôi mắt sưng bụp lên tía, năn nỉ: “Tía
cho con đọc kinh cho má nghen tía, nghen tía, chứ giờ hông đọc kinh biết làm gì
hả tía? Má nói đọc kinh cầu nguyện là cái gì cũng được Chúa cho hết đó! Tía!”.
Tía im lặng nhìn nó, rồi nhìn vợ mình, ông không nói gì nữa. Nó ngạc nhiên, lần
đầu tiên nó thấy tía không la nó chuyện liên quan đến đạo của má. Tía nó cũng
không hiểu tại sao ông không rầy nó như mọi bữa, chắc có lẽ ông cũng muốn thử
tin một lần.
Ông đâu phải không thương vợ, không muốn theo đạo của vợ đâu. Ngày
xưa lúc mới thương nhau, ông cũng hay đưa bà đi lễ nhà thờ mà, cũng hứa hẹn sẽ
theo đạo, sẽ vô đi lễ, sẽ xin má… Nhưng vì cái bồng bột của tuổi trẻ và sự
thiếu bản lĩnh của đứa con trai mới lớn, vì sự tham lam của cơn dục vọng và men
say, ông đành thất hứa và để vợ chịu cảnh má chồng con dâu, chịu sự đánh đòn
của nội, và nặng nề hơn nữa là ông phải bắt vợ mình bỏ đạo, bỏ luôn cái điều mà
ngay từ ngày đầu tiên mới quen bà đã khẳng định với ông rằng cả hai phải cùng
đạo thì mới chịu nên vợ nên chồng. Nhìn thấy vợ bị má mình đánh khi bị bắt quả
tang đi lễ nhà thờ, ông đau lòng lắm chứ, nhưng biết làm sao, ông đâu dám cãi
lời của má. Vì lẽ đó mà hai vợ chồng dù thương nhau lắm, vẫn luôn có một khoảng
cách khó lấp đầy, mà ông biết rõ là tại ông hết. Giờ ngồi dưới mái hiên nhà rả
rích mưa này, ông nhìn thấy cái lỗi của mình với vợ to lớn quá, tới lúc bà sắp
đi rồi mà ông vẫn chưa thể bù đắp được gì cho bà. Ông bất giác lại thở dài.
Sáng hôm sau má đỡ run hơn, cũng bớt sốt được chút. Thầy Thạch đem
tới nhà nó mấy chai nước thủy tinh, rồi treo lủng lẳng trên đầu má, gắn sợi dây
dài nối vô cánh tay má. Thầy nói thầy lấy thuốc từ trên thành phố về cho má,
thầy chạy suốt đêm. Tía rưng rưng nắm chặt tay thầy Thạch, nghẹn ngào nói không
thành tiếng, thầy Thạch gật gật đầu rồi đi ra. Mén ngó thấy mấy chuyện này cũng
hiểu lờ mờ là má nó được cứu rồi, nên nó sung sướng hôn liên tục lên mặt má, lên
tay má, nó lay má, nói má ơi má sắp khỏe rồi má ơi! Miệng nó cười toét mà mắt
nó rớt nước liên tục, con Mén mắc cỡ quẹt tay lau nước mắt nước mũi, lật đật
chạy ra sau nhà bắt nồi cháo, đợi lát má dậy có cháo mà ăn, chắc má đói lắm
rồi!
Hôm sau má mới tỉnh, còn yếu lắm nhưng cũng ráng húp miếng cháo
khét Mén nấu. Má sốt thêm ba bữa là hết sốt hẳn, nhưng còn ho nhiều. Người má
xanh như tàu lá chuối, Mén bày đặt làm mẹ, rầy má:
- Má không chịu nghe lời nè, dầm mưa nè, đã nói bữa đó mưa lớn ở
nhà mà má hổng chịu nè, ráng đi lễ chi cho bịnh thấy chưa! Hổng nhờ con bữa đó
đọc kinh thì giờ đâu có tỉnh đâu, thấy chưa!
Má phì cười, đưa ngón trỏ ịn lên trán nó cái nhẹ, con nhỏ này! Tía
nghe nó nói, lầm bầm:
- Nhờ thầy Thạch chuyến này chạy lên thành phố mua thuốc cho mình
mới đỡ đó, để tui kiếm cái gì đem qua bển cám ơn ổng một tiếng!
Má ừ với tía, mắt vẫn trìu mến nhìn Mén. Mén canh lúc tía không để
ý, nói nhỏ: “Cũng nhờ con cầu nguyện nữa chứ bộ!”. Tía tằng hắng, ý nói Mén
đừng có nổ nữa, nó lắm lét nhìn tía rồi im ru, không dám nói nữa. Má cũng không
nói gì thêm, dù má tin bàn tay kỳ diệu của Chúa đã đưa thầy Thạch đến cứu má,
nhưng không dám bênh vực nó, phần má cũng định bụng sẽ từ từ nói với tía sau.
Tía ngó thấy hai má con chù ụ, cũng hơi áy náy, tía biểu vài bữa xin thầy Thạch
cho nó theo học chữ, chứ lớn rồi không biết chữ cũng thiệt thòi với người ta!
(Bữa đó cầm cuốn kinh mà có biết đọc đâu, có mấy kinh mà đọc hoài!). Mắt Mén
sáng lên:
- Bên nhà thờ người ta có dạy chữ đó tía, gần mà hông tốn tiền nữa
đó tía! Tía cho con qua đó học nha tía, người ta còn dạy đủ thứ nữa tía!
Má ngó nhanh tía, nói thêm
vô:
- Thầy Thạch bận bịu chuyện trạm xá, mình đừng phiền thầy!
Tía tần ngần hồi lâu, con Mén nhanh như cắt chạy lại níu tay tía,
nằn nì năn nỉ, nó làm cái mặt đáng thương chu mỏ nheo mắt, nó giật giật tay tía
làm tía lảo đảo. Tía phát bực, trừng mắt với nó. Mén sợ quá, lật đật buông tay
tía ra, mắt lấm lét ngó tía. Trong thoáng chốc nó thấy tía cười thiệt là nhẹ
với má, nó chộp ngay:
- À há, tía cười rồi nha, tía chịu rồi nha, tía cho con đi học nha
tía. Nha tía!
- Cười hồi nào?
- Có cười mà, con thấy mà!
- Không có!
- Có mà, có mà tía! Tía ơi tía!
Tía không nhịn được, ừ đại với Mén. Mén hú một tiếng dài sung
sướng, nó chạy cái vèo ra đầu ngỏ, rồi chạy vòng vòng sân như đứa trẻ lên năm.
Tía lắc đầu ngó má, mắt má ánh lên lời cảm ơn trìu mến dành cho tía. Tía ngó
đứa con gái út, thấy thương nó quá. “Chuyến này không biết nói sao với nội,
thôi kệ, cho nó đi học cũng tốt mà, bên nhà thờ chắc sẽ dạy giáo lý luôn, thôi
tới đâu thì tới!”. Con Mén không thèm để ý tới vẻ mặt đăm chiêu nhưng lại quyết
tâm của tía, nó tung tăng như trẻ được quà, nhảy chân sáo mà hát líu lo:
“Mẹ cha thương con, tình như
núi non,
không hao mòn, là không hao
mòn.
Dù mai sau đây đời con lớn
khôn,
chẳng hề quên, xin chẳng hề
quên…”
Mã
số: 16-034
DẪU CÓ MUỘN MÀNG
Trung Thành và Diệu Hiền là
những con chiên ngoan đạo trong Giáo xứ. Hai anh chị đẹp người, đẹp nết kết hôn
với nhau thành “cặp đôi hoàn hảo”. Chị sinh cho anh bốn cháu trai, một cháu gái
và đặt tên: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Cưới nhau rồi, anh chị vẫn tiếp tục tham
gia các sinh hoạt trong Giáo xứ. Khi cháu út học lớp năm, Cha xứ mời anh chị
cộng tác vào việc truyền giáo trên Cao Nguyên.
Từ đó, anh chị Thành – Hiền
hăng say, nhiệt tình tham gia công tác ấy. Chị Hiền rất an tâm đi lo việc Chúa
vì mọi việc ở nhà có Bích Nghĩa đảm đang. Chị cảm thấy vô cùng hạnh phúc vì
Chúa cho gia đình êm ấm, hạnh phúc. Các con chị cháu nào cũng ngoan và học
giỏi. Hai vợ chồng chị cùng đồng lòng với nhau chăm lo việc Chúa. Chị Hiền
nghĩ: gia đình chị được như hôm nay tất cả là nhờ Lòng Chúa Thương Xót ban ơn.
Bởi từ khi Giáo xứ có phong trào tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, gia đình chị
nhiệt tình tham gia và loan truyền. Chị càng vững tin vào Lòng Chúa Thương Xót
thì mọi việc chị làm ngày càng thành công, nhất là việc đi khuyên giải các gia
đình bất hòa, ly tán. Trước khi đến với các gia đình ấy, chị Hiền luôn xin Hội
Lòng Chúa Thương Xót cùng cả nhà chị cầu nguyện. Gặp những gia đình có vấn đề
phức tạp, chị phải tới lui nhiều lần và xin cầu nguyện tha thiết hơn với Lòng
Chúa Thương Xót. Cuối cùng Chúa cũng thương cho họ được tái hợp, nên họ rất
biết ơn chị.
Các bà hiền mẫu mến phục gia đình chị Hiền
lắm. Một hôm, sau buổi họp Chị Thu lên tiếng trước:
- Em thấy gia đình chị Hiền
con cái ngoan ngoãn mà phát thèm. Con nhà em có hai đứa mà mệt muốn đứt hơi
luôn.
Chị Hồng cạnh nhà chen vô:
- Em ở kế bên nhà mấy chục
năm nay mà chẳng bao giờ nghe anh chị to tiếng với nhau. Bộ anh chị không bao
giờ cãi nhau hay sao ấy?
Chị Minh tiếp lời:
- Anh Thành đúng là mẫu đàn
ông lý tưởng: Không rượu chè, cờ bạc; không cà phê, thuốc lá; không trai gái
lăng nhăng… Còn mấy ông chồng nhà ta thấy mà phát chán, không chứng này cũng
tật nọ. Anh Thành suốt ngày lo việc nhà Chúa, về nhà thì lo giúp đỡ vợ con.
Chị Duyên có ông chồng hay
dối chị đi bia ôm, lên tiếng:
- Chị Hiền cũng nên đề phòng,
cánh đàn ông rất hay yếu lòng.
Chị Hiền trả lời một cách tự
hào:
- Ai chứ ông Thành nhà mình
thì mình chẳng sợ. Anh ấy không bao giờ giấu mình điều gì cả, nên mình rất yên
tâm và tin tưởng nơi ảnh.
- Bà coi chừng, lù khù vác
cái lu mà chạy lúc nào không hay đấy!
- Không bao giờ, mình tuyệt
đối tin anh ấy!
- Thời gian sẽ trả lời.
Hôm kỷ niệm hai mươi lăm năm
ngày cưới, anh chị Trung Thành_Diệu Hiền tổ chức cách long trọng. Chị rất vui
và hãnh diện vì được Cha xứ cùng mọi người khen ngợi gia đình chị là đạo đức,
gương mẫu. Anh cũng hãnh diện vì được các gia trưởng trầm trồ, thán phục:
- Anh Thành hay thật: ‘Giỏi
giang việc nước, chu đáo việc nhà’. Làm cách nào mà vẹn cả đôi đàng, truyền thụ
kinh nghiệm cho anh em với!
- Anh Thành khéo dạy con
thật. Hai ông bà bỏ nhà đi suốt mà các con vừa ngoan lại vừa giỏi. Có lẽ đi
khỏi nhà là sử dụng hệ thống điều khiển từ xa hay sao mà chúng nó vào khuôn hết
vậy?
Anh Hải chồng chị Hồng chen
vô:
- Tôi ở sát nhà anh mấy chục
năm nay mà chẳng bao giờ nghe anh chị to tiếng với nhau. Dường như hai người
không biết cãi nhau à! Nếu không biết thì hôm nào sang tôi chỉ cho.
- !!!
Mọi người cùng nhau cụng ly,
cười đùa vui vẻ. Lúc này anh Thành mới lên tiếng:
- Không giấu gì các anh, các
chú: Hai vợ chồng tôi không có cãi nhau là vì từ lúc cưới nhau về đã thỏa thuận
với nhau: “Mọi việc trong nhà: việc lớn do chồng quyết định, còn việc nhỏ để vợ
toàn quyền”. Nhưng từ hồi cưới nhau đến giờ chưa có việc gì lớn cả, nên cứ thế
tiến hành cách êm xuôi không gặp trở ngại gì.
Mọi người được một trận cười
vì sự dí dỏm của anh Thành.
***
Cuộc sống gia đình chị Hiền
êm trôi trong thắm nồng, hạnh phúc. Cha Xứ lập thêm ba cứ điểm truyền giáo,
dường như anh chị Thành_Hiền không còn thời gian cho mình nữa. Vả lại chị Hiền
sắp bước sang tuổi năm mươi, nên sức khỏe càng dần đi xuống; đặc biệt là chứng
thấp khớp làm chị đi lại khó khăn trong những lúc trở trời, nên chị có phần lo
lắng. Về phần chồng chị, anh vắng nhà thường xuyên hơn, có khi mỗi tháng đi một
tuần hay mười ngày. Chuyến nào về anh cũng có quà cho chị cùng các con và kể
lại tỉ mỉ về công việc ở cứ điểm truyền giáo để gia đình tạ ơn Chúa và cầu
nguyện thêm.
Gần một năm nay, thỉnh thoảng
anh Thành nghe đau nhói ở ngực và khó thở, vài bữa sau thấy tự khỏi. Tuy nhiên
lần này đi về, anh cảm thấy khá mệt và ho dai dẳng mấy tuần liền. Sau khi âm
thầm đi kiểm tra sức khỏe, anh báo cho gia đình biết mình bị ung thư phổi giai
đoạn cuối. Chị Hiền và các con sững sờ khi nghe tin ấy. Chị bảo anh mau đi chạy
chữa thì anh can:
- Anh đã đi nhiều bệnh viện
rồi, ở đâu họ cũng nói thế. Thôi, em và các con nên đón nhận ý Chúa.
- Thưa ba, “còn nước còn tát”
chứ ba để vậy chúng con không yên lòng_Các con anh nói.
Chị Hiền thêm vào:
- Con nó nói phải đó anh.
- Em và các con đừng lo lắng
nữa. Bác sĩ nói: chỉ có phép lạ mới chữa được thôi. Bây giờ mình cứ tin tưởng
phó thác nơi Chúa. Nếu Chúa muốn thì Chúa sẽ chữa cho mình, còn nếu Chúa đã
định thì “xin vâng ý Chúa”.
Thấy anh Thành bình tĩnh và
xác tín như vậy, chị Hiền cũng đỡ bối rối. Ngày đêm chị khấn xin Lòng Chúa
Thương Xót cứu chữa cho anh. Chị vô cùng lo lắng và tận tụy chăm sóc cho chồng.
Nghe nói ở đâu có thuốc hay, thầy giỏi là chị tìm đến. Chỉ mới mười ngày mà mắt
chị thâm quầng, mặt mày phờ phạc. Mấy hôm nay anh mệt nhiều do ăn không được và
phải thức trắng đêm vì những cơn ho không ngớt. Chị Hiền đi một ngày một đêm
xuống tận Cà Mau bốc thuốc cho chồng. Về đến nhà lúc rạng sáng, chị vội sắc thuốc
ngay. Anh uống chén thuốc ấy đến trưa đã dịu hẳn cơn ho và ăn được lưng tô
cháo. Anh uống chén thuốc nữa rồi đi nằm nghĩ. Anh vừa chợp mắt một lúc thì
điện thoại của anh có tin nhắn, chị Hiền mở lên xem:
“Anh Thành ơi! Hơn tuần nay
bé Duy đã nhập viện vì đau đầu và sốt cao. Các bác sĩ đã làm hết xét nghiệm và
chụp CT rồi mà vẫn chưa tìm ra bệnh. Bây giờ em lo lắm. Anh mau lên trông con
phụ em và đem cho em ít tiền. Em xin lỗi vì đã tự ý nhắn tin cho anh. Sao mấy
tuần nay anh không liên lạc với em làm em lo quá. Lên sớm nghe anh. Em Thu Hà”.
Chị Hiền đọc đi, đọc lại tin
nhắn mấy lần mà vẫn không tin vào mắt mình, Chị nghĩ: chắc có sự nhầm lẫn gì
đây? Chị cố gắng lấy lại bình tĩnh, sau một lúc suy nghĩ liền bấm máy gọi lại
số ấy.
- Alô. Anh Thành hả?
Chị Hiền cố dịu giọng:
- Chào chị. Em là em gái của
anh Thành. Lúc sáng nay anh Thành có việc đi gấp nên để quên máy ở nhà em.
- Ảnh đi chừng nào mới về vậy
chị?
- Chắc khoảng hai tuần. Nếu
chị có việc cần gấp em sẽ nhắn dùm. Mà chị quen biết thế nào với anh Ba của em?
- Không giấu gì chị, em ở
Buôn Mê Thuột. Lâu nay anh Thành đi công tác trên này rồi quen biết em. Ảnh
sống với em sáu năm nay và bé Duy là con của anh ấy.
- Trên đó nhà chị ở chỗ nào?
- Dạ, em ở nhà anh Thành, ảnh
mới sang tên cho em sáu tháng nay. Em nhờ chị nhắn tin ấy cho anh Thành giúp em
với. Em cám ơn chị rất nhiều.
- Dạ không có chi. Em sẽ nhắn
cho ảnh liền. Chào chị.
Đặt chiếc di động xuống bàn,
chị Hiền không còn đứng vững. Chị vội giơ tay chạm vào chiếc ghế rồi khụy
xuống, khuôn mặt nhợt nhạt thất thần, chị cảm thấy như trong lồng ngực có một
khối đá đè nặng làm chị không thể nào thở nổi. Tuy vậy, chị vẫn chưa tin. Chị
nghĩ: Có lẽ nào…? Chị cố gắng trấn tĩnh lại và muốn nghe sự thật từ chính miệng
của chồng. Chị vội đi lên nhà gọi anh dậy:
- Anh Thành. Anh Thành! Dậy.
Dậy đi!
Anh Thành choàng dậy, ngơ
ngác hỏi:
- Có chuyện gì vậy em?
- Cô Thu Hà nhờ nhắn với anh
là: “Bé Duy con anh bị bệnh sắp chết rồi!”.
Anh Thành lo lắng hỏi:
- Em nói sao?
Chị lặp lại lời nhắn và thấy
mặt anh biến sắc. Chị Hiền nghe đau nhói trong tim. Các con chị nghe dưới nhà
ồn ào liền chạy xuống thì thấy mắt chị đỏ ngầu, khuôn mặt tím tái, chị gằn từng
tiếng:
- Có phải anh sống với cô ta
sáu năm qua và có với nhau một đứa con, lại còn sang tên căn nhà trên ấy cho mẹ
con nó phải không?
Anh Thành sửng sốt lắp bắp:
- Sao… Sao em biết?
Chị Hiền ném mạnh chiếc điện
thoại vào tường, gào lên:
- Đồ phản bội!
Chị dùng hết sức lực tát vào
mặt anh một cái rồi từ từ qụy xuống. Anh Thành nhào tới đỡ chị, anh ôm chị
trong tay vừa lay gọi vừa đấm vào ngực mình mà khóc.
***
Chị Hiền lục lọi những thứ đồ
đạc trong vòng sáu năm qua anh mua cho chị, rồi mang hết ra sân: thứ nào đốt
được thì đốt, còn lại chị đập nát hay là đem bán đi; Kể cả chai rượu mật gấu
giúp chị giảm đau khớp trong những lúc trở trời chị cũng đập luôn. Ngày trước
gia đình hạnh phúc, vui vẻ, êm ấm bao nhiêu thì nay đau khổ, buồn bã, ảm đạm
bấy nhiêu. Từ xưa đến nay tối nào gia đình cũng đọc kinh, nhưng nay im ắng mỗi
người một góc. Trước đây chị yêu thương, kính trọng, tin tưởng anh bao nhiêu
thì nay chị căm ghét, khinh bỉ và oán hận anh bấy nhiêu. Trong lòng chị chất
chứa bao lời mắng nhiếc chua cay. Mỗi lần nghe anh nói lời xin lỗi là chị muốn
xổ ra cho hả giận, nhưng cơn uất hận dâng lên làm chị nghẹn lời. Với chị bây
giờ, nước mắt của anh là “nước mắt cá sấu” và trăm ngàn lời xin lỗi của anh chỉ
là những lời dối trá, điêu ngoa. Chị chỉ còn biết khóc và khóc vì không thể nào
tha thứ được cho anh. Chúa Nhật tuần
rồi, trước lễ chị đi xưng tội nhưng khi đến kinh Lạy Cha chị quay trở về.
Lần anh chịu phép Xức Dầu,
trước mặt các con anh quỳ dưới chân chị mà xin lỗi, nhưng chị vẫn im lặng trong
tiếng nấc nghẹn ngào, lồng ngực như muốn vỡ tung vì uất hận. Chị đấm mạnh vào
ngực mình, anh nhào tới giữ tay chị lại và nói trong tiếng thều thào:
- Nếu em còn giận anh thì cứ
đánh, cứ chửi anh đi.
Chị đấm vào người anh mấy
cái, gào lên:
- Anh giết tôi rồi, anh Thành
ơi!
Rồi chị ngất lịm trong vòng
tay của anh. Anh chỉ nói được một câu cuối cùng:
- Trời ơi! Tôi là thằng khốn
nạn mà… - Rồi anh gục xuống.
Các con anh chỉ còn biết khóc
và cầu nguyện cho bố mẹ: Xin Chúa giải thoát gia đình chúng con khỏi cảnh khổ
này.
***
Suốt ba tuần nay, kể từ ngày
chồng mất, chị Hiền gần như điên loạn vì căm tức sự phản bội của anh. Ngày nào
chị cũng ra mộ anh mắng nhiếc, chưởi rủa và đấm vào mộ anh cho đến khi bàn tay
bầm tím, sưng vù. Chị đi xưng tội, nhưng rồi lại bỏ lễ về khi đến kinh Lạy Cha.
Nghe lời chị bạn mách bảo, chị Hiền đến tĩnh tâm ở một Nữ Đan Viện. Trong bầu
khí tĩnh lặng, ấm cúng, linh thiêng của Đan Viện chị thấy tâm hồn có phần lắng
dịu, bình tâm. Chị tham dự hết những giờ kinh của các Sơ, nhưng ba ngày đầu cứ
đến kinh Lạy Cha là chị bước ra ngoài nhà nguyện vì chị không thể tha thứ được
cho chồng.
Chị Hiền kể tỉ mỉ cho vị Linh
mục già nghe gia cảnh của mình, rồi chị kết luận:
- Con biết, nếu bây giờ con
chết chắc là sa hỏa ngục vì con chưa thể tha thứ được. Mấy chục năm nay con đi
khuyên giải cho hàng trăm gia đình bất hòa tái hợp. Tới phiên mình con mới biết
tha thứ thật là khó.
- Tha thứ mà chị gọi là “khó”
à? Phải nói là “quá khó” và “không thể làm được” bằng sức con người, vì “tha
thứ” là chuyện “độc quyền” của Chúa. Cha khuyên chị đừng quá cố gắng tha thứ
khi lòng mình chưa muốn.
Chị Hiền ngạc nhiên nhìn Cha,
Cha nói tiếp:
- Chị cứ giận cho hết sức
mình. Có một người cũng cùng cảnh ngộ như chị: vừa bị phản bội, vừa bị môn đệ
bán, lại còn bị đồng hương giết chết cách nhục nhã. Chị hãy nhìn lên Thánh Giá
trên cao đó và chị hãy đến với Người để Người chỉ cho chị cách trả đũa. À! Cha muốn
kể cho chị nghe chuyện này. Chị có đọc Kinh Thánh Cựu Ước lần nào chưa nhỉ?
- Thưa Cha, con có đọc mấy
vòng.
- Chị biết những nhân vật
như: Samson, Đavít và Salomon chứ?
- Dạ biết. trong sách Thủ
Lãnh, Samuen và sách Các Vua ạ!
- Chị khá đấy! Này nhé: Một
Samson giết một ngàn tên Philitinh bằng cái hàm lừa, vậy mà chết vì một người
đàn bà phản trắc; rồi một vị được gọi là “Thánh vương” với rất nhiều cung phi,
mỹ nữ, lại đi giết Uria để cướp vợ anh ta; Một vị vua khôn ngoan xuất chúng như
Salomon: “trước ngươi không ai sánh bằng, sau ngươi không ai bì kịp”(1V3,12),
vua có bảy trăm bà vợ chính thức và ba trăm cung phi, nhưng cuối đời lại bị các
bà ấy làm vua hư hỏng, lạc xa đường lối Chúa. Đấy chị xem, con người ta yếu
đuối biết chừng nào. Thánh Augustino có lý khi nói rằng: mọi sự đều là của
Chúa, chỉ có “tội” là của mình thôi. Cha thấy chính bản thân mình cũng biết bao
lần bội bạc với Chúa, nếu Chúa giận mình một chút thôi thì chắc tiêu đời rồi.
Tóm lại, Cha muốn nói với chị là: Thân phận con người rất yếu đuối, dễ sa ngã.
Nếu không có ơn Chúa giúp chúng ta chẳng làm được gì cả. Chị hãy đến với Lòng
Chúa Thương Xót, chính Người sẽ dạy cho chị biết phải làm sao. Cha và các Sơ ở
đây sẽ làm tuần cửu nhật kính Lòng Chúa Thương Xót để cầu nguyện cho chị.
Nghe những lời khuyên giải
của Cha, chị Hiền mới ngộ ra: Thân phận con người thật yếu đuối, dễ sa ngã và
luôn bất trung, thất tín với Chúa nhưng Chúa vẫn bao dung, tha thứ, vậy mà mình
lại cố chấp không bỏ qua sự yếu đuối cho chồng. Quỳ trước ảnh Lòng Chúa Thương
Xót, nước mắt chị tuôn tràn. Không phải chị khóc vì căm hờn, oán hận và tức
tối, nhưng là những giọt nước mắt của thứ tha, hối hận và bao dung. Trong tiếng
nấc nghẹn ngào chị thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Lòng Thương Xót
nhân từ của Chúa, vì đã giải thoát con khỏi sự
oán hờn cố chấp, mà tha thứ cho sự bội bạc của chồng con…Dẫu có muộn
màng với cái chết của chồng con nhưng Lòng Thương Xót Chúa thức tỉnh con ngay
hôm nay, bây giờ và mãi mãi… không bao giờ là điều quá muộn màng”. Chị Hiền
thấy nhẹ nhỏm trong lòng như vừa trút đi một gánh nặng. Chị liền lấy tràng
chuỗi ra để đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót cầu nguyện cho chồng: “Lạy Cha chúng
con ở trên trời…”.
Mã
số: 16-035
ĐƯỜNG VỀ...
Cuộc đời như con nước lớn
nước nhỏ, khi đục ngầu hôi tanh bùn đất, khi trong lành mát rượi dưới cái nắng
trời hè, khi đầy, khi cạn, khi giận dữ, khi êm đềm, khi lả lơi dưới mạn thuyền
vỗ sóng, lúc lặng lẽ im lìm dưới ánh sao khuya.
Dòng đời như nước cuốn, dường
như ông trời vẫn không bỏ được cái tật “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Cái phận của Liên bảy nổi ba chìm, chín cái long đong. Mỗi lần chìm là những
tháng ngày sặc sụa vì hôi tanh bùn đất.
Bước vào tuổi mười tám, cái
tuổi của gió và trăng. Gió nâng mái tóc thề, trăng vuốt ve làn da trắng mịn. Liên
hồn nhiên như bao cô gái quê khác.
Học xong cấp ba, cánh cửa đại học không khép
lại trước người con gái đẹp. Gia đình khá giả nên Liên không phải bận tâm về
tài chính, bố mẹ mua hẳn cho chiếc xe máy để đi học.
Những ngày đầu của đời sinh
viên nơi thành phố còn bỡ ngỡ đối với Liên. Nhớ lời bố mẹ dặn, Liên vẫn cố gắng
đi lễ mỗi ngày vào buổi chiều khi tan lớp.
Thời gian dần trôi qua, cái
nét hồn nhiên, thơ ngây, e thẹn của người con gái quê nơi Liên dần phai đi, khi
nó bị đánh bóng bởi cuộc sống phồn hoa của phố thị. Những bộ đồ giản dị được
vất bỏ để thay vào đó là những mốt thời trang đắt tiền. Bạn bè ngày mỗi nhiều
hơn, chung quanh Liên có biết bao chàng trai công tử theo đuổi.
Những giờ phút lặng lẽ trong
nhà thờ của mỗi chiều dần vắng đi, thay vào đó là những buổi tiệc tùng sinh
nhật, hay thác loạn trong vũ trường, quán bar. Thời gian đầu Liên cảm thấy áy
náy và bứt rứt trong tâm hồn. Nhưng dần dần, cái cảm giác đó không còn nữa,
việc bỏ lễ Chúa nhật là đều Liên không bao giờ dám nghĩ tới khi ở quê mà giờ
đây Liên cũng chỉ cho qua bằng một cái chắt lưỡi.
Năm thứ nhất đại học khép lại
cũng là lúc Liên biết mình mang thai. Quá chai lì trong mặc cảm tội lỗi, Liên
trút bỏ nó một cách không thương tiếc. Không
dừng lại ở đó, Liên còn lao mình vào những trò hút chích mà đám bạn rủ
rê. Những tiết học vắng dần sau những lần phê thuốc.
Tiền hằng tháng bố mẹ ở quê
gửi lên không đủ cho Liên xài. Mốt cặp bồ với đại gia được Liên nghĩ tới. Từ
ngày quen được lão Đại tiệm vàng ở gần chợ, Liên lại lao vào những thú vui mới.
Không còn biết đến nhà thờ là gì nữa. Những ngày về thăm bố mẹ vắng dần. Bố mẹ
có hỏi, Liên chỉ đáp gọn lỏn một câu “con bận học”.
Cái tin Liên cặp bồ với chồng
đến tai vợ lão Đại, bà lồng lộn lên như con sư tử bị giật mất mánh mồi. Phụ nữ
khi bình thường thì thật đúng là phái đẹp, nhưng khi cơn ghen nổi lên thì cay
như ớt nồng như vôi. Mà cũng đúng thôi, hoạ chăng ông ăn chả, bà ăn nem mới
không thèm để ý nhau làm gì. Cái bệnh hoạn thư thì dường như bà nào cũng có.
Kế hoạch trả thù Liên được bà
vạch lên trong từng giấc ngủ, ngoài mặt, bà vẫn làm như không hay biết chuyện
gì, khiến lão Đại vẫn âm thầm lén lút rút tiền mang cho Liên.
Tối Valentine, đêm lễ tình yêu, lão Đại trốn vợ
với lý do đi công chuyện, bà biết tỏng tòng tong là ông đi gặp bồ. Quát vội con
ở trông nhà, bà gọi ngay thằng cậu chở bà chạy theo lão Đại. Chạy tới khu nhà
trọ sinh viên, lão nhìn trước ngó sau rồi đi thẳng tới phòng Liên ở. Chỉ chờ có
thế, kẻ hận tình xông vào với cái kéo trên tay, màn đánh ghen làm náo loạn cả
dãy nhà trọ. Bà chửi bới, nắm tóc, đánh đập Liên một cách tàn nhẫn. Trong khi
lão Đại đứng như trời trồng, rồi âm thầm bỏ chạy mặc cho Liên bị đánh đập như
một con chó.
Sau đợt đó Liên phải nghỉ học vì mặt mày thâm
tím. Mái tóc dài ngang lưng giờ bị cắt ngắn như cái chổi sể cùn. Không chịu nổi
những ánh mắt đầy khinh bỉ của bạn bè, Liên rời khỏi cổng trường đại học khi đã
được nửa năm thứ ba. Ở lại thành phố vì không muốn về quê gặp bố mẹ, Liên làm
tiếp viên cho một quán bia ôm, đó là những tháng ngày đen tối nhất của Liên.
Chôn vùi mình trong vũng bùn
của xã hội, Liên giấu bố mẹ với công việc của một nhân viên bán hàng. Ông bà ở
quê nhà vẫn không hay biết gì về cuộc sống của con gái, thỉnh thoảng vẫn gọi
điện bảo con nhớ siêng năng đi lễ đọc kinh, Liên chỉ ậm ờ cho qua chuyện. Đối
với Liên, nhà thờ đã đi vào dĩ vãng, Liên không còn niềm tin vào Chúa, không
còn là chỗ cho cô tìm đến những lúc buồn vui của cuộc sống như trước kia. Thay
vào đó, vũ trường, quán bar, tình dục mới là chỗ cho cô trút bầu tâm sự.
Thời gian trôi đi, Liên sống
chung với một người đàn ông đã có vợ ở quê. Những ngày đầu chung sống còn có
chút mặn mà, nhưng khi cái bụng đòi ăn thì mới có chuyện tiền anh tiền tôi.
Không chịu nổi trước cái vũ phu của thằng chồng hờ, Liên cuốn gói bỏ đi với cái
thai được 4 tháng.
Liên nhìn cuộc đời bằng con
mắt thù hận, Liên muốn trả thù đời, Liên muốn chôn vùi đi quá khứ. Bước vào
tuổi hai mươi tám, nhan sắc giờ không còn mặn mà như trước kia. Cuộc đời đưa
đẩy như cánh bèo trôi dạt giữa dòng sông, mong sao gặp được mạn thuyền để tựa.
Liên Nhắm mắt mặc cho dòng đời nổi trôi, một lần nữa Liên lại muốn bỏ đi cái
mầm sống mà mình đang cưu mang.
Vào bệnh viện với lý lịch đã
từng nạo phá thai, bác sĩ khuyên Liên nên giữ lại mầm sống, vì có thể cô sẽ
không còn khả năng sinh sản nếu phá thai lần này. Nữ bác sĩ trẻ với ánh mắt đầy
cảm thông và yêu mến đã làm cho Liên nghĩ tới tình mẫu tử thiêng liêng. Trong
con người Liên bị giằng co bởi hai lựa chọn. Nhưng cuối cùng tình mẫu tử nhỏ
nhoi trong con người Liên cũng đã thắng, cô quyết định đến mái nhà tình thương
nơi dành cho những chị em lỡ lầm, với suy nghĩ sinh xong sẽ bỏ.
Cô bác sĩ trẻ trong bệnh viện
đã động viên khích lệ Liên giờ đây lại tươi cười trong tà áo của một ma-soeur
dòng Phaolô. Liên không dám nói mình là người có đạo, trong con người Liên, cô
đã chôn vùi ký ức của mình là người Công giáo.
Những tháng ngày ở trong mái
nhà tình thương để chờ tới lúc sinh đã làm cho Liên dần tỉnh ngộ, trước cuộc
sống bình an, vui vẻ đầy yêu thương phục vụ của các soeur, Liên nhận ra tiền
tình là tù tội. Mặc cảm tội lỗi ập về trong tâm hồn Liên. Những giọt nước mắt
chảy dài trong đêm sau khi nghe lời chia sẻ trong những ngày tĩnh tâm mà các soeur
tổ chức cho chị em.
Liên nhận ra ở đời đâu phải
có tiền là có tất cả, đâu phải hạnh phúc được xây dựng bằng vật chất, đâu phải
con người ta sống chỉ cho riêng mình, đâu phải chết là hết, nhưng chết là mở ra
một cõi đi về. phù vân nối tiếp phù vân, tất cả chỉ như gió cuốn mây bay. Những
gì Liên muốn giữ chặt, lại tan chảy như giọt nước giữa trời hè oi bức. Niềm vui
Liên kiếm tìm trong vật chất, lạc thú, chỉ để lại cho cô cảm giác trống rỗng
chán nản mỗi lúc nó tàn.
Liên thất vọng với chính bản
thân mình, cô nghĩ rằng Chúa sẽ không tha thứ cho mình sau chừng ấy năm dập vùi
trong nhơ nhớp. Cô mặc cảm, tự dằn vặt mình, cảm thấy mình như kẻ đáng nguyền
rủa. Cái mặc cảm đó cũng là một bức tường ngăn cách để đưa Liên về với Chúa qua
bí tích hoà giải. Liên vẫn giấu mình trong lớp áo của kẻ ngoại đạo, mặc cho
trong thâm tâm cô đầy những tiếng gào thét của sự ăn năn thôi thúc.
Ngày sinh cũng đã tới. Liên
quằn quại đau đớn trong cơn chuyển dạ. Đứa bé trai cất tiếng khóc chào đời
trong sự vui mừng của các soeur. Nước mắt Liên hoen nhoè, cô khóc không phải vì
đau đớn, nhưng là khóc vì niềm vui mà Liên không thể nghĩ tới trước đây. Ôm
trong lòng đứa con mà mình đã từng có ý định bỏ đi khi còn trong trứng nước, Liên
ân hận vì đã lầm lỡ khi bỏ đi đứa con lần đầu. Ôm chặt nó vào lòng, Liên sợ sẽ
mất nó trước những mũi kéo mà cô gặp trong mơ.
Chính đứa con đã cho liên
thêm động lực để sống, để bước đi trở về với Chúa sau bao năm gục ngã trên
đường đời. Liên muốn làm lại cuộc đời của mình, vất bỏ đi những lỗi lầm quá
khứ, để sống một cuộc sống khác, một cuộc sống sẽ đưa cô trở lại với những gì
mà cô đã đánh mất từ ngày cô đắm chìm trong lạc thú.
Trong buổi tối của ngày thứ
bảy, khi vị linh mục vào để rửa tội cho các trẻ sơ sinh, Liên đã xin với các soeur
cho thằng bé được rửa tội. Nước mắt hoen nhoè, Liên kể cho xơ bề trên biết về
những tháng ngày tăm tối.
Sự sẻ chia, yêu thương và
thông cảm của soeur bề trên là động lực để giúp Liên đến với bí tích hoà giải.
Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài sẵn sàng chữa lành và tha thứ. Ngài
không để một ai trở lại với Ngài phải thất vọng. Ngài đem bình an đến cho tâm
hồn. Liên chan hoà nước mắt của niềm vui trở về khi bước ra khỏi toà giả tội.
Sinh con được hai tháng, Liên
gửi thằng bé lại nhờ các soeur nuôi, một mình cô lại bươn chải giữa dòng đời.
Làm nhân viên cho một quán ăn
khá lớn ở chợ Ga Vinh, thời gian trôi đi thật nhanh, mới đó mà đã hai năm. Liên
gặp Quang, người đàn ông đã goá vợ. Quang sống một mình từ ngày vợ anh mất đi
khi vừa cưới nhau được hai tháng trong một tai nạn. Chiếc xe tải do người tài
xế say rượu lái đã tông vào vợ anh khi cô đang trên đường về thăm mẹ. Nổi đau
đó làm Quang như điên dại, anh sống lầm lì với công việc của một nhân viên vận
chuyển nước đá.
Từ khi Liên và Quang gặp
nhau, hai người đã yêu nhau. Một tình yêu tuy muộn nhưng rất chân thành. Nhưng
sự đời thật éo le. Ngay khi Liên đang mơ tưởng đến một cuộc sống đơn giản bên
người mình yêu trong mái ấm gia đình thì cô lại phát hiện ra mình bị ung thư.
Cuộc sống như đảo lộn, Liên buông xuôi tất cả trong sự tuyệt vọng.
Liên lặng lẽ ra đi mà không
nói với Quang một tiếng. Cô sợ sẽ làm liên luỵ đến cuộc sống của Quang. Cô thầm
trách số phận hẩm hiu của mình, nước mắt lại chảy dài trên khoé mắt, cô nhớ
nhà, nhớ bố mẹ.
Liên đến ở trong nhà dành cho
bệnh nhân của các soeur. Những cơn đau ngày càng làm Liên tiều tuỵ. Sau một
thời gian không tin tức về cho gia đình. Cô đánh bạo gọi điện về nhà. Tiếng
khóc nức nở của mẹ qua điện thoại làm nước mắt Liên chảy dài. Thằng Bi thấy mẹ
khóc cũng khóc theo.
Lại một lần nữa, tình thương
của gia đình và của các soeur đã giúp Liên đứng vững trong đức tin. Sự cậy trông
nơi Chúa đã đưa Liên ra khỏi bầu trời thất vọng. Quang tìm đến trong nghẹn
nghào:
- Sao em ra đi mà không nói
một tiếng...!
- Em chỉ sợ làm anh đau
khổ...
- Đau khổ nào bằng đau khổ
không có em...!
Hai người ôm nhau mà khóc.
Quang tận tình chăm sóc cho Liên sau những lúc tan việc.
- Quang... anh đi đi..vì yêu
em không có tương lai.... em không xứng với tình yêu của anh. Liên cố gượng
người dậy mỗi khi Quang đến.
- Anh sẽ không đi đâu hết...
đừng nói nhiều... cố gắng nghỉ ngơi cho khoẻ... anh tin là em sẽ vượt qua.
Quang trả lời, đôi bàn tay vẫn cầm chặt tay Liên.
Dường như Quang cũng hiểu rõ,
định mệnh lại một lần nữa sắp cướp đi người con gái anh yêu. Nhìn Liên ngày
càng tiều tuỵ, lòng anh tan nát. Là một người ngoại đạo, nhưng anh đã cất lên
lời nguyện cầu với Chúa những lúc lặng lẽ ngồi trong nhà thờ của các soeur để
chờ Liên tham dự thánh lễ.
Chuyến hành hương tại linh
địa La Vang đã trở thành một phép lạ, khối u ác tính dần dần biến mất mà không
phải do thuốc hay xạ trị. Bố mẹ, người thân, các soeur không cầm được nước mắt
trước nổi vui mừng của Liên. Lời kinh tạ ơn được họ hát lên trong hạnh phúc.
Sau hai tháng, Quang được rửa
tội. Một đám cưới nhỏ bé đơn giản được tổ chức, cô dâu chú rể tay trong tay,
theo sau là thằng cu Bi tò te gọi mẹ.
Mã số:
16-036
TÂM NGUYỆN CUỐI CÙNG
“Lạy Cha! Xin tha cho họ
vì họ lầm”
Hơn ba năm qua, dường như
lúc nào câu nói “Lạy Cha! Xin tha cho
họ vì họ lầm” cũng văng vẳng bên tai kể cả trong giấc ngủ chập
chờn hay những lúc bươn trải nơi trường đời, nó vẫn cứ vang vọng
trong tim, trong hồn anh. Nhưng có lẽ anh đã không nghe hay nói đúng hơn,
anh cố tình không muốn nghe. Đã có lúc anh muốn thực hiện tâm nguyện
sau cùng của ba nhưng mỗi lần nghĩ đến cái chết tức tưởi, lúc ba
nằm giãy giụa trong vũng máu, nghĩ đến cuộc sống hiện tại chua chát
của mình, nghĩ đến thằng em nhỏ côi cút, anh lại muốn gạt phăng câu
nói ấy ra ngoài, không muốn thực hiện tâm nguyện cuối cùng trước khi
chết ba trối lại. “Ai mà cũng như ba
thì thế giới này thành thiên đàng mất, con sẽ không làm theo tâm
nguyện của ba đâu, nhất định con sẽ trả thù cho ba”. Những ý
tưởng này cứ trồi lên hiện xuống, giằng xé trong đầu anh không biết
bao nhiêu lần. Mỗi khi ý tưởng trả thù vừa xuất hiện thì lời nói
của ba lại vang lên “hãy tha thứ, đừng trả thù con nhé”. Vì thế mà
anh không thể nào thực hiện được ý định điên cuồng của mình.
Anh ngồi đó, ánh mắt nhìn xa
xăm vào khoảng tối mịt mù. Ba năm, khoảng thời gian không phải là ngắn
nhưng cũng chưa dài đủ để có thể quên đi tất cả. Ba năm, kể từ cái chết bi thảm
của ba xảy ra đến nay anh vẫn còn chưa hoàn hồn. Vết thương quá lớn đã cứa nát
trái tim còn non nớt nơi anh – một thằng bé vừa đủ lớn để hiểu được vấn đề. Ba
năm ba ra đi là ba năm anh khép lòng với mọi người và với cả chính anh. Hầu
như lúc nào căn nhà anh cũng đóng kín chỉ trừ có lúc chập tối người ta mới nhìn
thấy ánh sáng lờ mờ hắt ra. Đó là lúc vui vẻ và đoàn tụ của hai anh em, còn
ban ngày chẳng ai thấy anh ở đâu. Thằng em nhỏ đang giở những tờ lịch cũ, như
sực nhớ ra điều gì nó dừng lại, chạy ra mé cửa nơi anh đang ngồi lay
lay vào vai.
- Anh Hai ơi! Ngày mai giỗ ba
anh có đi lễ với em không?
Anh quay lại nhìn thằng em bé
nhỏ tội nghiệp của mình rồi kéo nó ngồi xuống đùi, anh vuốt nhẹ lên mái tóc hoe
vàng của nó, lâu lắm rồi hôm nay anh mới bồng nó ngồi vào lòng mình, anh
thương nó còn nhỏ mà đã thiếu thốn tình thương của ba mẹ. Càng thương nó anh
càng thấy căm ghét người mẹ vô tâm. Thương em nhưng anh không thể bên cạnh nó
vì anh phải lo đi kiếm tiền để nuôi em và còn phải cho nó đi học. Thay vì trả
lời câu hỏi của nó anh lại kéo nó vào lòng và thì thầm hỏi:
- Hôm nay Tuấn Anh được mấy
điểm, có bị ai bắt nạt không?
- Dạ em được chín điểm anh ạ,
em làm sai một bài.
- Đưa anh xem nào.
Tuấn Anh chạy nhanh như bay
vào giường xách chiếc cặp ra lấy tập đưa cho anh. Ngồi kiểm tra bài cho em, anh
nhớ lại hình ảnh ba, mỗi lần anh đi học về ba thường gọi anh lại kiểm
tra bài, và tặng cho anh một nụ hôn thật ấm áp. Từ khi mất ba, mất mẹ
anh không còn có cơ hội đến trường, không được đùa nhảy tung tăng với
các bạn …tuổi thơ của anh đã khép lại từ đó. Và cuộc đời của anh
kể từ đó cũng bước vào một khúc ngoặt mới. Anh trở nên lầm lì ít
nói, anh bỏ luôn các đoàn thể mà trước đây anh đã từng gắn bó. Vì
nơi đó anh chẳng tìm được nguồn nâng đỡ tinh thần.
Nhà thờ, nơi người ta thường
đến để ngụp lặn trong dòng suối yêu thương, để kín múc nguồn ân sủng
từ Chúa và rồi khi ra về họ có thêm can đảm, nghị lực tiếp tục
cuộc hành trình. Nhưng với anh, nơi đó lại chính là địa ngục ở trần
gian. Ngoài ông cha xứ lạnh lùng, bà trùm hay cáu gắt còn có những
bà già nhiều chuyện, soi mói. Hầu như lúc nào họ cũng có chuyện để
nói, lúc bàn tán gia đình anh thế này, khi thì nói xấu mẹ anh thế
nọ. Họ chê ba anh nhu nhược, họ xem thường hai anh em của anh, dưới mắt
họ anh là một đứa trẻ nguy hiểm phải loại trừ vì tội cắp vặt. Họ
đồn đại với nhau “bé cắp gà, già cắp trâu” cho nên ai thấy anh cũng
phải đề phòng. Mỗi lần đến đó anh cảm thấy một bầu khí ngột ngạt,
nặng trĩu. Ở giữa một rừng người mà anh vẫn cảm thấy thật lẻ loi.
Nơi lớp giáo lý của bà trùm có mấy thằng bạn cà chớn nghiện ghêm
chuyên ăn cắp tiền của các bạn nữ và một vài đồ vật trong nhà giáo
lý, bà chẳng tìm hiểu nhưng một mực bảo anh là “tội phạm”. Bị oan
ức nhưng anh không biết phải thanh minh thế nào vì hầu như chẳng ai tin
anh, một đứa trẻ mồ côi không tiếng nói. Mỗi lần bà có chuyện bực
dọc ở gia đình, ở nhà xứ thì tự nhiên anh vô tình trở nên chiếc
thùng chứa để bà xả vào đó mọi bực bội của mình.
Anh, một thằng bé mới
mười mấy tuổi chưa một lần nếm trải trường đời nhưng khi bị “đẩy
vào đời” thì “đời” lại quá nghiệt ngã. Cú xốc quá lớn và xảy ra
thật nhanh làm cho anh không kịp đối phó, đương đầu với những khắc
nghiệt của cuộc đời. Biết làm sao vì trời ở quá xa. Từ khi ba chết,
anh phải lo cho mình và cả thằng em nhỏ. Anh bắt đầu lao vào đời như
con thiêu thân lao tìm ánh sáng. Chính nơi đây đời giúp anh trưởng thành,
nhưng cũng chính đời gieo vào anh lòng hận thù ghen ghét, một thứ mà từ nhỏ tới
giờ anh chưa được làm quen. Anh bươn trải đủ nghề: từ việc đi bán vé số, bán
kem, đánh giầy, đến đi kéo hàng thuê cho mấy người trong chợ để có được nắm gạo
nuôi em. Nhưng không phải lúc nào công việc cũng thuận buồm, xuôi gió.
Những ngày đầu anh thường xuyên về nhà tay không vì bị “cánh đàn anh”
ăn hiếp. Có hôm chúng giành khách với anh và còn dạy cho anh một trận
đòn chí tử. Nhiều hôm đi làm cả ngày mà chỉ đủ mua một ổ bánh mì,
có những lúc anh nhịn đói để nhường cho em ăn. Một lần đi ngang qua
vườn khoai, sự đói khát làm cho anh mất tự chủ. Những củ khoai căng tròn
nhô lên khỏi mặt đất, không kìm chế được anh nhổ mấy giây định bụng tối
nay về hai anh em được một bữa ngon lành. Nhưng thật không may cho anh,
vườn khoai đó là của bà trùm. Vừa lúc anh từ vườn khoai đi lên thì
bà cũng tới đầu ruộng. Bà giật lại mấy giây khoai trên tay anh rồi
quất túi bụi vào mặt, vừa tát vừa chửi: đồ ăn cắp, đồ trắc nết,
đồ không có người dạy. Có bao nhiêu cái “đồ xấu xa” bà gán hết cho anh. Chưa
hết, bà đi rêu rao trong xóm phải đề phòng vì anh là đứa hay cắp vặt. Nên hễ
trong xóm mất mát cái gì người ta cũng nghĩ ngay đến anh. Uất ức nhưng
không làm gì được, nên ước muốn “trả thù đời” ngày càng tăng lên.
Mất niềm tin nơi con người
anh nghi ngờ cả Tình yêu của Chúa. Đối với anh Chúa thật xa vời, nếu Chúa
hiện diện nơi những con người anh gặp gỡ đó, nơi sự lạnh lùng khó tả
của ông cha xứ, nơi bà trùm điêu ngoa…thì anh chẳng cần phải tin, phải yêu
vì “Chúa” cũng đâu có tốt gì để anh phải tôn trọng. Đã ba năm anh
không tới nhà thờ, không đón nhận các bí tích. Nhớ lại giây phút cuối
cùng ba chỉ kịp nói với anh có một câu: “đừng trả thù, hãy tha thứ, hãy lo cho
em thay …b..a”. Ông đã vĩnh viễn ra đi để lại đứa em hơn chín tuổi và anh 13
tuổi. Cái tuổi anh chưa thể hiểu hết được “tình Chúa” khác xa “tình
người”. Anh chỉ nhìn thấy những gì cụ thể nơi những con người vẫn
nói về tình yêu của Chúa lại chẳng thể hiện “Tình Chúa” chút nào.
Trước đây khi còn được sự bao bọc của ba mẹ, anh vẫn thường đến nhà
thờ, vẫn thường tham dự các đoàn thể…anh thấy họ nói về Chúa thật
đẹp. Chúa tốt lành, Chúa quyền năng…bây giờ với anh, những từ đó
chỉ là giả dối. Nếu Chúa là tình yêu và tốt lành sao lại để cho
mẹ anh – người mẹ ruột giết ba, chiếm tài sản, và bỏ rơi hai anh em
của anh để đi theo người khác? Cứ nghĩ đến đó thôi thì nỗi uất hận
lại dấy lên trong anh chứ đừng nói chi đến việc thực hiện tâm nguyện
của ba. Cúi xuống nhìn thằng em đang ngồi gọn trong lòng mình anh ôm
chặt lấy nó.
- Thôi, ngủ đi em ngày mai em
còn phải đi học.
- Anh Hai ơi! Nhưng mà mai
giỗ ba.
- Ừ, anh biết rồi.
- Vậy mình có đi lễ không
anh?
- Đi lễ hả?
- Đi lễ để cầu nguyện cho ba
chứ anh.
- Anh bận lắm, em cứ đi một
mình đi.
- Chỉ đi một lúc thôi mà
anh, mấy năm rồi anh Hai đâu có đi lễ.
- Thì có em đi thay anh
rồi đó.
- Không được đâu anh Hai,
mai lễ của ba em muốn anh Hai đi lễ với em cơ.
- Thôi, ngủ đi nào.
- Ứ, anh chưa trả lời em.
- Được rồi, mai anh đưa em
đi, được chưa?
- Nhưng anh có vào ngồi
với em không?
- Thì anh đưa em tới đó
là được rồi, nhiều chuyện quá đi.
- Hôm trước cha xứ nói
ngày mai lễ khai mạc năm lòng Chúa thương xót. Trùng vào ngày lễ giỗ
ba nên em thấy vui.
- Xót gì mà xót, chẳng
ai xót mình đâu em. Giờ chỉ có tiền, tiền sẽ là người xót cho tất
cả mọi chuyện. Có nó mọi việc sẽ êm hết, em không thấy có những ngày
anh không làm ra tiền anh em mình phải đi ngủ với cái bụng đói sao.
Rồi cũng vì tiền mà mẹ đã giết ba, đã bỏ anh em mình sao…Thôi ngủ đi,
ngày mai anh còn phải kiếm tiền để cho cái bao tử của anh và em khỏi
réo.
Nghe anh nói vậy, đứa em
nhỏ chỉ biết khóc. Nó không nghĩ anh Hai của nó lại có thể ăn nói
như một người không có niềm tin. Nó úp mặt vào lòng anh khóc nức
nở, trong tiếng khóc nó hướng về Chúa để cầu nguyện cho người anh
tội nghiệp của nó. Nó thật sự thương anh, nó cũng biết anh vất vả
vì nó. Từ khi ba chết, anh phải lao vào trường đời, phải tranh giành
để tồn tại, bị hắt hủi, bị xem thường như một kẻ mồ côi đúng
nghĩa…nên nó hiểu được phần nào về sự thất vọng nơi anh. Nó không
trách anh, thật sự anh chẳng có lỗi, chính môi trường nghiệt ngã này
tạo nên nhân cách nơi anh. Sở dĩ anh không còn cảm nhận được lòng
thương xót và sự đỡ nâng của Chúa, bởi anh không gặp được Chúa nơi
con người. “Chúa ơi, anh giận những người đó cũng được nhưng sao anh
lại giận Chúa? Chúa đâu có làm gì anh? Chúa vẫn luôn yêu thương, bao
bọc anh…Chúa ơi, xin hãy cứu anh con, cho anh nhận ra tình yêu của Chúa
để anh biết quay về với Ngài”.
Thấy em vẫn còn khóc, anh
không thể cầm lòng đành cúi xuống hôn vào mái tóc của nó, anh nói
qua loa để cho nó yên tâm nín lại:
- Thôi, ngủ đi mai anh vào
dự lễ với em.
- Thật hả anh?
Nó mừng như thể vừa tìm
lại được vật gì quý lắm mà bấy lâu nay hai anh em nó đã đánh mất.
Mấy năm rồi anh không hề đến nhà thờ, suốt ngày anh chỉ lo đi kiếm
tiền, tối về anh lăn ra ngủ. Nó thì thầm với Chúa “Chúa ơi, con cảm
ơn Chúa vì đã đón nhận ước nguyện của con” rồi ngước lên nhìn anh:
- Cảm ơn anh hai, nó thiếp
đi trong hạnh phúc.
Hai anh em lên nằm nhưng mãi
mà anh không sao chợp mắt được. Những lời nói ngây ngô của nó làm cho anh
suy nghĩ nhiều “mấy năm rồi anh Hai đâu có đi lễ”. Anh tự hỏi “không
biết tại sao anh lại dễ dàng bỏ đi niềm tin mà từ bé anh đã được
gieo vào, tại sao vì người khác mà anh lại giận Chúa. Đúng rồi,
Chúa đâu có làm gì anh, Ngài vẫn thương anh như lúc ban đầu dù anh đã
vô cớ giận và bỏ Ngài mấy năm nay”. Anh khóc, khóc nhiều hơn lúc ba
chết. Từ trước tới giờ có lẽ đây là lần đầu tiên anh khóc, giọt
nước mắt sám hối lăn dài trên gò má như đang tẩy rửa từng vết bụi
của bao năm lang thang, rời khỏi mái ấm Tình Cha. Anh từ từ thiếp đi,
trong giấc ngủ chập chờn anh thấy bóng ba hiện về và nói lại ước nguyện của
ba: “con ơi, sao con chưa thực hiện điều ước của ba?”. Nghe ba hỏi anh
ấp úng trả lời.
- Con không thể, không thể
tha thứ.
- Tại sao vậy con?
- Ba có biết vì bà ấy
mà chúng con khổ cực như thế nào không? Chúng con chẳng còn ba, chẳng
còn mẹ, tự nhiên trở thành những đứa trẻ mồ côi, đói khổ bị sỉ
nhục và xem thường, vậy mà ba còn bảo con tha thứ cho bà ấy, không đời
nào.
- Con có thể vì ba một
lần không? Nếu con không thực hiện tâm nguyện của ba thì ba vẫn chưa
được giải thoát.
- Ba, giờ này ba vẫn còn
trong luyện tội sao ba? Con xin lỗi ba, mấy năm nay con không cầu nguyện
cho ba vì trong con luôn chất chứa sự hận thù. Con đâu có nghĩ vì con
mà ba phải chịu cực hình. Ba ơi, vâng vì ba nhất định con sẽ thực
hiện tâm nguyện của ba ngay bây giờ.
Rồi anh không còn thấy gì
ngoài làn khói trắng bay mù mịt. Tự nhiên anh thấy hối hận vì đã không
thực hiện ước nguyện của ba. Anh chạy theo bóng ba nhưng càng chạy thì
càng không thấy dấu vết gì. Anh khóc,
khóc thật to. Tỉnh dậy mới biết mình đang mơ. Anh vội vàng bật dậy,
đi tới bàn thờ lấy đèn pin rọi vào khuôn mặt ba. Anh giật mình vì
nhìn vào bức di ảnh hôm nay sao thấy ba buồn thật buồn, không phải khuôn
mặt vẫn tươi cười ấu yếm nhìn anh em của anh mọi ngày. Anh quỳ gối
xuống trước di ảnh và khóc:
- Ba ơi! Ba tha lỗi cho con,
mấy năm nay con vẫn chưa thực hiện tâm nguyện của Ba, chưa thể tha thứ
cho người mẹ không tốt của mình và nhất là con đã không cầu nguyện
cho ba. Con bỏ Chúa, bỏ nhà thờ…hôm nay, đúng ba năm ba về với Chúa.
Con xin hứa, ngay hôm nay con sẽ đi giao hòa với Chúa, con sẽ thực hiện
đúng tâm nguyện của ba, con sẽ tha thứ cho tất cả những ai gây đau khổ
cho con.
Vừa lúc đó, tiếng chuông
đầu ngày từ ngôi thánh đường vang lên, anh nghe văng vẳng bên tai mình: “Ba ước mong rằng nơi nào con hiện diện nơi
đó sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm này”.
Anh bước lại giường, nơi đứa em nhỏ còn say sưa ngủ, anh lay em và
bảo:
- Tuấn Anh, Chúa gọi rồi,
dậy đi lễ em, đi để cầu nguyện cho ba. Hôm nay lễ xong hai anh em mình
vào trại đi thăm mẹ em nhé.
Thằng em nhỏ tròn xoe mắt
ngạc nhiên nhìn anh:
- Thật không anh Hai? Em chờ
ngày ấy đã lâu.
BẢN
THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập
nhật cho cuộc thi lần thứ tư - 2016
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn
khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn
(1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể
lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1.
Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần,
năm thứ sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao
giải tổng kết.
2.
Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui
Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt
giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự
tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không
quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng
tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi
rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại
theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp
theo.
5. Đề tài: đợt này cuộc thi ưu tiên nhấn mạnh
hai đề tài: Lòng Chúa thương xót – Việc thờ cúng tổ tiên nơi người Công giáo
Việt Nam – Trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên (theo thông điệp Laudato Si’ của
Đức Thánh Cha Phanxicô); tuy nhiên vẫn nhận cả những bài viết ngoài hai đề tài
ấy, miễn là có nội dung Kitô giáo.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể
gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
7.
Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8.
Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm
nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù
đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các
chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9.
Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau
đều không được chấp nhận.
10.
Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com
và gopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi
năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12.
Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng,
theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố
ngày 15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà
không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng
trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org và những trang mạng ủng hộ chương
trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành
tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai giải nhì, mỗi giải 12.000.000
$VN
- ba giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt
giải, nếu có nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất
bản một tuyển tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô
giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được
nhận 50% tiền giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác
giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận
75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG
DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã
qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời độc giả tham gia
bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2.
Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng
quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành
hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp
phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin ghi rõ xuất xứ
bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt
trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân
thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho
cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn –
Email: gopnhattho@yahoo.com
– Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 15-8-2015
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ
Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn
hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét