THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI - ÁNH SÁNG ĐỨC
TIN
CHƯƠNG
III
TÔI TRUYỀN LẠI CHO ANH EM
ĐIỀU MÀ CHÍNH TÔI ĐÃ LÃNH NHẬN
(x. 1 Cr 15:3)
Đức tin, sự cầu nguyện và Mười Điều Răn
46. Có hai yếu tố thiết
yếu khác trong việc thông truyền trung thực ký ức của Giáo Hội. Thứ nhất là lời
Kinh của Chúa: Kinh “Lạy Cha”. Ở đây, người Ky-tô hữu học biết sự chia sẻ trong
kinh nghiệm thiêng liêng của chính Đức Ky-tô, và nhìn mọi thứ thông qua đôi mắt
của Ngài. Từ Ngài – Đấng là ánh sáng bởi ánh sáng, Chúa Con duy nhất được sinh
ra từ Chúa Cha, chúng ta đến để nhận biết Thiên Chúa và vì vậy có thể thắp lên
nơi người khác ngọn lửa khao khát đến gần Ngài.
Điều quan trọng
tương tự là mối liên hệ giữa đức tin và Mười Điều Răn. Đức tin, như chúng ta đã
nói, tạo ra một dạng thức của một chuyến hành trình, một con đường để bước
theo, bắt đầu bằng một sự gặp gỡ với Thiên Chúa Hằng Sống. Nó ở trong ánh sáng
đức tin, ánh sáng của sự trao phó cho Thiên Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ, rằng Mười
Điều Răn mang chân lý sâu xa nhất của nó, khi được đọc ngay từ các lời giới thiệu
về các điều răn này: “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi
đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh.20,2). Mười Điều Răn không phải là một bộ điều
răn có tính tiêu cực, nhưng là những hướng dẫn cụ thể được ban ra tại sa mạc của
sự ích kỷ và bản ngã tự rào kín nhằm đi vào với cuộc đối thoại với Thiên Chúa,
được bồng ẵm bởi lòng
thương xót của Ngài, và sau đó mang lòng thương xót ấy cho người khác. Vì thế,
đức tin tuyên xưng tình yêu của Thiên Chúa, nguồn gốc và trụ cột của muôn loài
muôn vật, và để tự bản thân nó được hướng dẫn bởi tình yêu này nhằm để tiến bước
trong cuộc hành trình tiến về sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa. Mười Điều
Răn xem ra như là con đường của sự biết ơn, của sự đáp trả tình yêu, được trao
sức mạnh, bởi trong đức tin, chúng ta dễ dàng tiếp thu kinh nghiệm về tình yêu
biến đổi ấy của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và con đường này nhận được ánh
sáng mới từ lời dậy của Đức Giê-su trong Bài giảng trên Núi (x. Mt.5-7).
Vì thế, đây là bốn yếu tố tạo thành kho ký ức mà Giáo Hội chuyển
giao: tuyên xưng đức tin, cử hành các bí tích, sự tuân giữ mười điều răn, và cầu
nguyện. Việc truyền thụ giáo lý của Hội Thánh, theo truyền thống, được sắp xếp
xung quanh bốn yếu tố ấy; điều này bao gồm Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, một
sự hỗ trợ căn bản cho hoạt động đồng nhất mà với hoạng động ấy, Giáo Hội thông
truyền toàn bộ nội dung đức tin của mình: „tất cả bản thân Giáo Hội và tất cả
những gì mà Giáo Hội tuyên xưng“. [39]
Sự Thống Nhất và
toàn vẹn của đức tin
47. Sự hiệp nhất của Giáo Hội trong không gian và thời gian được nối
liền với sự thống nhất của đức tin: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí … một niềm
tin” (Ep.4,4-5). Những ngày này chúng ta có thể hình dung ra được có một nhóm
người đang hiệp nhất với nhau trong cùng một công việc chung, yêu thương lẫn
nhau, sẻ chia cùng một số phận và có cùng một mục đính. Nhưng chúng ta cảm thấy
khó tưởng tượng về một sự hiệp nhất trong một chân lý. Chúng ta có khuynh hướng
nghĩ rằng, một sự hiệp nhất của loại này không thích hợp với sự tự do tư tưởng
và sự tự chủ cá nhân. Nhưng kinh nghiệm của tình yêu chỉ cho chúng ta thấy rằng,
một cái nhìn chung là có thể, vì thông qua tình yêu, chúng ta học được cách
nhìn thực tại thông qua đôi mắt của người khác, không phải như cái gì đó làm giảm
bớt, hạn chế cái nhìn của chúng ta, mà thay vào đó làm phong phú cái nhìn của
chúng ta. Tình yêu chân thật, giống như tình yêu của Thiên Chúa, rốt cục đòi hỏi
phải có sự thật, và sự chiêm nghiệm chung về chân lý Đức Giê-su Ky-tô, làm cho
tình yêu có thể trở nên sâu nặng và bền lâu. Đây cũng là niềm vui to lớn của đức
tin: một sự hiệp nhất trong một thân thể và một tinh thần. Thánh Lê-ô Cả đã có
thể nói: “nếu đức tin không là một, thì nó không phải là đức tin”. [40].
Bí ẩn của sự hiệp nhất này là gì? Trước hết, đức tin là “một”, bởi
vì tính độc nhất của Thiên Chúa – Đấng được biết tới và được tuyên xưng. Tất cả
các tín điều đều nói về Thiên Chúa; chúng là những con đường để nhận biết Ngài
và các công việc của Ngài. Cho nên, sự hiệp nhất của chúng vượt xa bất kỳ sự định
hình nào của lý trí con người. Chúng sở hữu một sự thống nhất và làm cho chúng
ta trở nên phong phú hơn bởi vì nó được trao cho chúng ta và làm chúng ta nên một.
Đức tin cũng là một bởi nó được định hướng tới một Thiên Chúa, tới
sự sống nơi Đức Giê-su, tới lịch sử cụ thể mà Ngài chia sẻ với chúng ta. Thánh
I-rê-nê thành Lyon đã làm rõ điều này trong một cuộc đấu tranh chống lại phái Duy
Tri. Phái Duy Tri cho rằng, có hai loại đức tin: một là đức tin thô sơ, không
hoàn hảo, phù hợp với đại quần chúng, nó vẫn còn ở cấp độ nhục thể của Đức
Giê-su và sự chiêm nghiệm các màu nhiệm của Ngài; và hai là đức tin sâu xa hơn,
hoàn hảo hơn, được dành cho một nhóm người đã được thụ giáo, tức những người mà
về mặt trí tuệ có khả năng vượt lên trên nhục thể của Đức Giê-su hướng tới các
màu nhiệm thần tính. Trái ngược với tuyên bố này, mà thậm chí ngày ngay nó tạo
ra một sự hấp dẫn nhất định và có những người đi theo nó, Thánh I-rê-nê nhấn mạnh
rằng, chỉ có một đức tin, vì nó được dựa vào biến cố cụ thể của sự hóa thành xác
thể và không bao giờ có thể vượt trên nhục thể và lịch sử của Đức Ky-tô, bởi
Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình một cách đầy đủ, trọn vẹn nơi nhục thể
đó. Vì lý do này, Thánh nhân nói, không có sự khác biệt trong đức tin của “những
người có thể thuyết trình dài về nó” và “những người cũng nói nhưng nói ít hơn”,
giữa những người vĩ đại hơn và những người thấp kém hơn: loại người thứ nhất
không thể làm tăng thêm đức tin, và loại người thứ hai cũng không làm giảm bớt
đức tin. [41]
Cuối cùng, đức
tin là một, bởi nó được chia sẻ bởi toàn thể Giáo Hội, mà Giáo Hội là một thân
thể và một Thánh Thần. Trong sự hiệp thông của một chủ thể là Giáo Hội, chúng
ta lãnh nhận được một cái nhìn chung. Bằng việc tuyên xưng cùng một đức tin,
chúng ta đứng vững trên cùng một tảng đá, chúng ta được biến đổi bởi cùng một
Thần Khí tình yêu, chúng ta tỏa ra một ánh sáng và chúng ta có một cái nhìn
xuyên thấu thực tại.
48. Mà bởi đức tin là một, nên nó phải được tuyên xưng trong tất cả
sự tinh tuyền và tòan vẹn của nó. Quả thế, bởi
tất cả các tín điều đều có mối liên hệ với nhau, nên việc phủ nhận một trong
các tín điều, thậm chí ngay cả những tín điều xem ra ít quan trọng nhất, điều
đó có nghĩa là đã làm méo mó toàn bộ. Mỗi giai đoạn lịch sử có thể tìm thấy điểm
này hoặc điểm kia của đức tin dễ hơn hoặc khó chấp nhận hơn: vì thế cần thận trọng
trong việc đảm bảo rằng, nguồn gốc của đức tin được chuyển giao trong sự toàn vẹn
của nó (x. Tm.6,20) và rằng, mọi khía cạnh của việc tuyên xưng đức tin được nhấn
mạnh một cách thích đáng và đúng lúc. Qủa thực, vì sự thống nhất của đức tin là
sự hiệp nhất của Giáo Hội, nên loại trừ một số điều gì đó từ trong kho tàng của
đức tin có nghĩa là đã loại trừ một điều gì đó từ sự chân thật của sự hiệp
thông . Các Giáo Phụ đã mô tả đức tin
như là một thân thể, mà thân thể ấy gồm có các chi thể khác nhau, bằng sự tương
đồng với thân thể của Đức Ky-tô và sự nối dài của nó trong Giáo Hội [42] .
Sự toàn vẹn của
đức tin cũng được gắn chặt với hình ảnh của Giáo Hội như một trinh nữa và sự
chung thủy của mình trong tình
yêu đối với Đức Ky-tô, phu quân đích thực của mình; làm tổn hại đức tin có
nghĩa là làm tổn hại sự thông hiệp với Thiên Chúa. [43] Vì thế, sự hiệp nhất của
đức tin là sự hiệp nhất của một thân thể sống động; điều này đã được Chân Phước
Gio-an Hen-ri Niu-mân nêu ra một cách rõ ràng khi ngài liệt kê ra các chú ý tiêu
biểu trong việc nhận ra sự liên tục của giáo lý, mà ở đây có sự vượt qua mọi thời
với sức mạnh có thể thu nhận mọi thứ mà nó gặp trong các môi trường khác nhau,
cũng như tại chính nơi mà nó hiện diện, và trong các nền văn hóa khác nhau mà
nó gặp [44], thanh lọc tất cả và mang chúng đến với vẻ đẹp tinh tuyền nhất. Vì
thế, đức tin được biểu tỏ như là phổ quát và công giáo, bởi ánh sáng của nó trải
rộng ra để chiếu rọi toàn bộ vũ trụ và toàn bộ lịch sử.
49. Với tư cách là người kế vị các Tông Đồ - Giáo Hội đã được Thiên
Chúa trao ban một tặng phẩm như là một sự trợ giúp đối với sự hiệp nhất trong đức
tin cũng như tính thông truyền trọn vẹn của nó. Trên phương diện này, sự liên tục nơi ký ức của
Giáo Hội được đảm bảo, và sự tiếp cận với nguồn mạch mà từ đó đức tin chảy ra
có thể đạt tới được sự chắc chắn. Vì thế, sự đảm bảo liên tục với các nguồn gốc,
được trao cho những người sống theo một cách phù hợp với đức tin sống động mà
Giáo Hội đang kêu gọi truyền giao. Giáo Hội phụ thuộc vào sự trung thành của
các chứng nhân mà họ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để giao phó cho sứ vụ này.
Vì lý do ấy, quyền giáo huấn của Hội Thánh luôn luôn nói trong sự vâng phục đối
với những điều mà đức tin được dựa
vào; nó đáng tin cậy vì sự trung tíc của nó trước lời mà nó nghe thấy, duy trì
và trình bày lại một cách chi tiết. [45] Trong lời tạm biệt của Thánh
Phao-lô gửi cho các kỳ mục tại Giáo đoàn Ê-phê-xô ở Mi-lê-tô, mà Thánh Lu-ca đã
thuật lại cho chúng ta trong sách Tông Đồ Công Vụ, ngài làm chứng rằng, ngài đã
thực hiện nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài để “rao giảng cho anh em
tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv.20,27). Nhờ quyền giáo huấn của Giáo Hội, ý định
này có thể đến được với chúng ta trong sự toàn vẹn của nó, và với nó niềm vui
có thể được thực hiện một cách trọn vẹn.
(còn tiếp)
BBT.
Bài có liên quan: THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI - ÁNH SÁNG ĐỨC TIN Chương III (tiếp theo 1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét