THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI - ÁNH SÁNG ĐỨC
TIN
CHƯƠNG
I
CHÚNG TA ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU ẤY
(x. 1 Ga. 4:16)
Sự tròn đầy của đức tin Ky-tô giáo
15.“Ông Áp-ra-ham là cha của các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng
được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ." (Ga.8,56). Theo những
lời này của Chúa Giê-su, lòng tin của Ab-ra-ham đã chỉ cho ông thấy; theo một
nghĩa nào đó nó thấy trước được màu nhiệm của Ngài. Nên Thánh Au-gus-ti-nô đã
hiểu nó khi tuyên bố rằng, các tổ phụ được cứu độ bởi lòng tin, không phải niềm
tin nơi Đức Ky-tô – Đấng đã đến, nhưng nơi Đức Ky-tô đấng sẽ đến, một niềm tin
thúc giục hướng về tương lai của Chúa Giê-su [13]. Đức tin của người Ky-tô hữu
được đặt trọng tâm vào Chúa Ky-tô; nó là sự tuyên xưng rằng, Chúa Giê-su là
Chúa, và rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết (x. Rm.10,9).
Toàn bộ Cựu Ước
đều đồng quy về Chúa Ky-tô; Ngài trở nên từ “Có” cuối cùng, dứt khoát cho mọi lời
hứa, nền tảng cơ bản của từ thưa “Amen” của chúng ta với Thiên Chúa (x. 2Cr.1,20).
Cuộc đời của Chúa Giê-su là biểu lộ trọn vẹn sự đáng tin cậy của Thiên Chúa. Nếu
Dân Is-ra-el tiếp tục hồi tưởng lại các hành động yêu thương vĩ đại của Thiên
Chúa, tức điều đã tạo nên cốt lõi của sự tuyên xưng đức tin và được trải rộng bởi
cái nhìn của nó trong đức tin, thì cuộc đời của Chúa Giê-su bây giờ trở nên như
là địa điểm của sự can thiệp cuối cùng, dứt khoát của Thiên Chúa, sự biểu lộ
cao nhất về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Lời Thiên Chúa nói với chúng ta
trong Chúa Giê-su không phải là một lời đơn giản như mọi lời, nhưng là Lời vĩnh
hằng của Ngài (x. Heb.1,1-2) Thiên Chúa có thể không ban cho chúng ta sự đảm bảo
nào vĩ đại hơn được nữa về tình yêu của Ngài (x. Rm.8,31-39). Vì thế, niềm tin
của Ky-tô giáo là niềm tin vào một tình yêu hoàn hảo, trong sức mạnh mang tính
quyết định của nó, trong khả năng biến đổi thế giới này và mở ra lịch sử của
nó. “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình
yêu đó” (1Ga.4,16). Trong tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giê-su,
đức tin nhận được nền tảng mà trên đó mọi thực tại và số phận của nó được đặt
lên.
16.Bằng chứng rõ
nét nhất về sự đáng tin cậy nơi tình yêu của Chúa Ky-tô đó là điều được tìm thấy
trong cái chết của Ngài vì chúng ta. Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu
người thí mạng sống của mình cho người mình yêu (x. Ga.15,13), chính Chúa
Giê-su đã dâng hiến chính mạng sống của Ngài cho tất cả, thậm chí cho cả kẻ thù
của Ngài, để biến đổi con tim họ. Điều này giải thích cho thấy tại sao các nhà
truyền giáo có thể coi giờ Chúa Giê-su bị treo trên thập giá là đỉnh điểm của
cái nhìn đức tin; trong giờ ấy, chiều sâu và chiều rộng của Thiên Chúa được chiếu
tỏ. Nên nhờ đó mà Thánh Gio-an đã đưa ra lời chứng rất quan trọng, khi ngài
cùng với Đức Ma-ri-a - Mẹ Chúa Giê-su nhìn lên Đấng đã bị đâm thâu (x Ga.19,37):
“Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và
người ấy biết mình nói sự thật” (Ga.19,35). Trong tác phẩm Thằng ngốc của
Dostoevsky, Hoàng tử Myshkin nhìn thấy một bức tranh của Hans Holbein, mà ở đó
người em út miêu tả về cái chế của Chúa Ky-tô trong mồ và nói: “nhìn vào bức tranh đó
có thể làm cho một người mất đức tin của mình” [14]. Bức tranh là một bức chân
dung khủng khiếp về các động tác phá hủy của sự chết trên thân thể của Chúa
Ky-tô. Nhưng chính trong sự suy niệm về cái chết của Chúa Giê-su mà đức tin được
lớn lên mạnh mẽ hơn và nhận được ánh sáng chiếu rọi; nên nó được biểu lộ như là
niềm tin vào tình yêu kiên định của Chúa Ky-tô dành cho chúng ta, một tình yêu
có thể nhận lấy sự chết để mang ơn cứu độ đến cho chúng ta. Tình yêu này – tức tình
yêu đã không chùn bước trước cái chết để chỉ ra chiều sâu của nó – là điều tôi
có thể tin vào; toàn bộ món quà của Chúa Ky-tô tự nó đã vượt thắng mọi nghi ngờ
và làm cho tôi có thể trao phó hoàn toàn bản thân mình cho Ngài.
17.Cái chết của Chúa
Ky-tô đã phơi bày sự đáng tin cậy tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa trên tất cả
trong ánh sáng nơi sự phục sinh của Ngài. Là người đã sống lại, Chúa Ky-tô trở
nên nhân chứng đáng tin cậy, đáng để tin (x Rev.1,5; Heb.2,17), và là một sự hỗ
trợ vững chắc cho niềm tin của chúng ta. “Nếu Chúa Ky-tô không sống lại, thì niềm
tin của anh em là vô ích, phù phiếm” - Thánh Phao-lô đã nói như thế (1 Cr.15,17).
Nếu tình yêu của Chúa Cha không làm cho Chúa Giê-su chỗi dậy từ cõi chết, nếu
không thể phục hồi sự sống cho thân xác của Ngài, thì sẽ không có một tình yêu nào
hoàn toàn đáng tin cậy, cũng không có khả năng chiếu rọi vào bóng tối của sự chết.
Khi Thánh Phao-lô mô tả sự sống mới của ngài trong Chúa Ky-tô, Thánh nhân nói về
“niềm tin vào Con Thiên Chúa – Đấng mà đã yêu thương tôi và trao chính mình
Ngài cho tôi” (Gal.2,20).
Rõ ràng, “niềm
tin vào Con Thiên Chúa” này có nghĩa là niềm tin của Thánh Phao-lô vào Chúa
Giê-su, nhưng chính bản thân của Chúa Giê-su cũng được coi như là điều đáng để
tin, niềm tin ấy không chỉ dựa trên chính
việc Ngài đã yêu chúng ta, thậm chí yêu đến chết, mà còn dựa trên tư cách làm Con
Thiên Chúa của Ngài. Bởi vì Chúa Giê-su thực sự là Người Con, và bởi vì Ngài
tuyệt đối được sinh ra từ Thiên Chúa Cha, Ngài có thể chinh phục sự chết và có
thể chiếu tỏa ánh sáng một cách tròn đầy trên sự sống . Nền văn hóa của chúng
ta đã đánh mất đi khả năng nhận thức về sự hiện diện hữu hình và họat động của
Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa sẽ chỉ được
tìm thấy ở nơi thế giới bên kia, trên một mức độ khác của thực tại, đã bị loại
bỏ xa khỏi các mối quan hệ hằng ngày của chúng ta. Nhưng nếu điều này thực sự xảy
ra, và nếu Thiên Chúa đã không thể hành động trong thế giới này, thì tình yêu của
Ngài sẽ không có sức mạnh thực sự, không có thực, không có một tình yêu mà nó có
thể đem lại hạnh phúc như Ngài đã hứa. Sẽ chẳng có sự khác nhau gì cả giữa việc
chúng ta tin hay không tin vào Ngài. Trái lại, người Ky-tô hữu tuyên xưng niềm
tin của mình vào tình yêu đầy sức mạnh và hiện hữu của Thiên Chúa, tình yêu ấy
thực sự tác động trong lịch sử và quyết định số phận cuối cùng của nó: một tình
yêu mà nó có thể gặp thấy được, một tình yêu được biểu lộ một cách trọn vẹn
thông qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Ky-tô.
18.Sự trọn vẹn
mà Chúa Giê-su đã mang lại cho niềm tin còn có một khía cạch mang tính quyết định
khác. Trong đức tin, Chúa Ky-tô không đơn giản là một Đấng mà chúng ta đặt niềm
tin vào, như là sự biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Ngài còn
là Đấng mà với Ngài chúng ta được lien kết với nhau để có thể tin. Đức tin
không chỉ là việc nhìn vào Chúa Giê-su, nhưng còn là nhìn thấy những điều như
chính Chúa Giê-su đã nhìn thấy, bằng đôi mắt của chính Ngài: nó là một sự tham dự
vào cách nhìn của Ngài. Trong nhiều lĩnh vực của đời sống chúng ta, chúng ta
tin tưởng vào những người biết nhiều hơn chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào kiến
trúc sư khi ông ta xây dựng ngôi nhà của chúng ta, tin tưởng vào thầy thuốc khi
ông ta cho chúng ta thuốc để chữa trị, tin tưởng vào luật sư khi ông bảo vệ
chúng ta nơi tòa án. Chúng ta cũng cần đến những người đáng tin cậy và có khả
năng hiểu biết về những công việc của Thiên Chúa. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, chính là
người có thể làm cho chúng ta nhận biết được Thiên Chúa (x. Ga.1,18). Cuộc đời
của của Đứ Chúa Ky-tô, cách thức nhận biết Thiên Chúa Cha của Ngài, cũng như cuộc
sống trong mối tương quan hiệp thông trọn vẹn và không ngừng với Thiên Chúa Cha
đã mở ra các khung trời mới và hấp dẫn đối với sự hiện hữu của con người. Thánh
Gio-an đã nêu rõ tầm quan trọng của mối quan hệ thân mật và riêng tư với Chúa
Giê-su đối với đức tin của chúng ta, bằng cách sử dụng các cấu trúc khác nhau của
động từ “tin”. Bên cạnh cụm từ “tin rằng” điều Đức Giê-su đã nói với chúng ta
là thực, thánh Gio-an cũng nói về “tin” Chúa Giê-su và “tin vào” Chúa Giê-su.
Chúng ta “tin” Chúa Giê-su khi chúng ta chấp nhận lời của Ngài, lời chứng của
Ngài, bởi vì Ngài chân thận. Chúng ta “tin vào” Chúa Giê-su khi chúng ta đích
thân đón tiếp Ngài đi vào cuộc đời của chúng ta và tiến đi về phía Ngài, bấu bám
vào Ngài trong tình yêu và bước theo những bước chân của Ngài trên mọi nẻo đường.
Để làm chúng ta
có thể nhận biết, chấp nhận và theo Ngài, Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm.
Theo cách này Ngài cũng đã nhìn thấy Chúa Cha với cung cách con người, trong sự
thiết lập một cuộc hành trình được mở ra trong thời gian. Đức tin Ky-tô giáo là
niềm tin vào sự hiện thân của Ngôi Lời và sự phục sinh thân xác của Ngài; nó là
niềm tin vào một Thiên Chúa, Đấng gần gũi chúng ta đến nỗi Ngài đã đi vào trong
lịch sử của nhân loại chúng ta. Không những không tách chúng ta ra khỏi thực tại,
mà đức tin của chúng ta vào Con Thiên Chúa - Đấng đã trở thành người phàm nơi Chúa
Giê-su Nazareth – làm cho chúng ta có thể hiểu thấu được ý nghĩa sâu xa nhất của
thực tại và nhận ra Thiên Chúa đã yêu thế giới này biết dường nào và không ngừng
hướng dẫn nó tiến về chính Ngài. Điều này làm chúng ta – những người Ky-tô hữu
– sống cuộc đời của chúng ta trong thế giới này với sự tậm tâm và sức mạnh lớn
hơn bao giờ hết.
Cứu độ nhờ đức tin
19.Trên cơ sở của
sự chia sẻ này trong cách nhìn mọi thứ của Đức Giê-su, Thánh Phao-lô đã để lại
cho chúng ta một sự miêu tả về đời sống đức tin. Trong việc chấp nhận quà tặng
đức tin, các tín hữu trở nên một sự sáng tạo mới; trở thành tạo vật mới;
với tư cách là con cái của Thiên Chúa, giờ đây họ trở thành “những người con
trong Con Thiên Chúa”. Cụm từ “Abba, Cha ơi”, cũng là nét đặc trưng trong kinh
nghiệm của chính Chúa Ky-tô, giờ đây trở nên trung tâm điểm nơi những kinh nghiệm
của người Ky-tô hữu (x. Rom.8,15).
Đời sống đức tin
- như là cuộc sống của đạo làm con – là sự thừa nhận một món quà nguyên thủy và
triệt để trong sự nâng đỡ và duy trì đời sống của chúng ta. Chúng ta nhận thấy
rõ điều này trong câu hỏi của Thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Cô-rin-tô: Bạn có
gì mà bạn đã không nhận lãnh?(1Cr.4,7). Điều này nằm ngay ở trung tâm
điểm của cuộc tranh luận giữa Thánh Phao-lô và người Pha-ri-siêu: vấn đề là, ơn
cứu độ có được là nhờ vào lòng tin hay nhờ vào công việc của lề luật? Thánh
Phao-lô đã không chấp nhận thái độ của những người tự coi mình là công chính
trước mặt Thiên Chúa dựa trên cơ sở các công việc của chính họ.
Những người như
thế, thậm chí khi họ tuân theo các giới răn và làm những việc lành thánh, đã tự
đặt mình vào vị trí trung tâm; họ đã không nhận ra được sự thiện đến từ Thiên
Chúa. Ai hành động như thế, ai muốn tự coi mình như là nguồn mạch sự công chính
của chính mình, người ấy sẽ có kinh nghiệm rằng, nguồn mạch đến từ chính họ sẽ
mau chóng cạn kiệt, và phát hiện ra rằng, thậm chí họ có thể giữ được lòng
trung thành với lề luật. Họ trở nên khép kín, đóng mình lại, tách ra khỏi Thiên
Chúa và tha nhân; đời sống của họ trở nên vô ích, phù phiếm và công việc của họ
không sinh hoa kết trái, giống như một cái cây thiếu nước. Thánh Au-gus-ti-nô
đã diễn tả bằng một ngôn ngữ đầy xúc tích nhưng cũng đầy ấn tượng như sau: “Đừng
ngoảnh mặt đi với Đấng đã tạo dựng nên bạn, nhưng thậm chí hãy ngoảnh lại với
chính bản thân bạn”. [15]. Khi tôi nghĩ rằng, bằng cách ngoảnh mặt đi với Thên
Chúa, tôi sẽ tìm thấy chính mình, thì cuộc đời của tôi đã bắt đầu vỡ ra từng mảnh
(Lc.15,11-24). Sự bắt đầu của ơn cứu độ là sự mở ra cho những thứ trước bản
thân chúng ta, trước món quà nguyên thủy đảm bảo cho đời sống của chúng ta và giúp
nó tồn tại. Chỉ bằng cách mở ra và thừa nhận món quà này thì chúng ta mới có thể
được biến đổi, kinh nghiệm được cứu độ và sinh hoa trái thánh thiện. Cứu độ nhờ
đức tin có nghĩa là thừa nhận nguồn cội nơi những ân ban của Thiên Chúa. Như
Thánh Phao-lô đã nói: “chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ:
đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”
(Ep.2,8).
20.Cách nhìn mới
của đức tin thể hiện trong việc nhìn thấy những thứ được đặt trọng tâm vào Chúa
Ky-tô. Niềm tin vào Chúa Ky-tô mang lại ơn cứu độ bởi vì trong Ngài cuộc đời
chúng ta được mở ra hoàn toàn cho một tình yêu đi trước chúng ta, một tình yêu
biến đổi chúng ta từ bên trong, tác động trong chúng ta và thông qua chúng ta.
Điều này được nhìn thấy trong sự chú giải của Thánh Phao-lô về đoạn văn trích từ
sách Đệ Nhị Luật, một sự chú giải phù hợp với sứ điệp cốt lõi của Cựu Ước. Mô-se
đã nói với dân rằng, mệnh lệnh của Thiên Chúa không ở quá cao cũng không ở quá
xa. Không cần nói: “Ai sẽ đi lên trời và mang nó xuống cho chúng ta?” hoặc “Ai
sẽ băng qua biển để mang nó đến cho chúng tôi?” (Dt.30,11-14). Thánh Phao-lô đã
giải thích sự gần gũi này của Lời Thiên Chúa về sự hiện diện của Chúa Ky-tô nơi
người Ky-tô hữu. “Đừng tự hỏi: ai sẽ lên trời ? ngụ ý là : để đem Chúa Ki-tô xuống.
Cũng đừng hỏi : Ai sẽ xuống âm phủ ? ngụ ý là : để đưa Chúa Ki-tô lên từ cõi chết”
(Rm.10,6-7). Chúa Ky-tô xuống trần gian và trỗi dậy từ cõi chết; bằng sự nhập
thể và phục sinh, Con Thiên Chúa đã ôm lấy toàn thể sự sống và lịch sử của nhân
loại, và giờ đây cư ngụ trong con tim của chúng ta thông qua Thần Khí. Đức tin
biết rằng Thiên Chúa đã lôi kéo chúng ta đến sự gần gũi với Ngài, rằng Chúa
Ky-tô đã được ban tặng cho chúng ta như là một món quà vĩ đại làm biến đổi
chúng ta từ bên trong, cư ngụ giữa chúng ta và vì thế ban tặng cho chúng ta ánh
sáng chiếu rọi sự khởi đầu và kết thúc của sự sống.
21.Chúng ta đến
để nhìn thấy sự khác biệt mà đức tin đã mang lại cho chúng ta. Ai tin thì sẽ được
biến đổi bởi tình yêu mà họ đã mở lòng mình ra trong đức tin. Bằng sự mở lòng
mình ra cho tặng phẩm của tình yêu tận căn này, đời sống của họ được lớn lên và
trải rộng. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong
tôi” (Gal. 2,20). “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Chúa Ki-tô ngự trong tâm hồn”
(Ep. 3,17). Sự tự nhận thức của người tín hữu giờ đây được mở rộng bởi vì sự hiện
diện của người khác; giờ đây nó sống trong người khác, và vì thế, trong tình
yêu, sự sống nhận thêm một chiều kích hoàn toàn mới. Ở đây chúng ta nhìn thấy
Chúa Thánh Thần trong công trình của Ngài. Người Ky-tô hữu có thể nhìn bằng đôi
mắt của Chúa Giê-su và chia sẻ trong suy
nghĩ của mình, trong tâm tình làm con, bởi vì người Ky-tô hữu chia sẻ trong
tình yêu của mình, đó là Thần Khí. Trong tình yêu của Chúa Giê-su, chúng ta nhận được cái nhìn của
Ngài theo một phương cách chắc chắn. Không tuân theo Ngài trong tình yêu, không
có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, thì không thể tuyên xưng Ngài là Chúa (x.
1 Cr. 12,3).
Hình thức đức tin của Ky-tô giáo
22.Theo cách
này, đời sống của người tín hữu trở nên một đời sống Ky-tô giáo, một đời sống
được sống trong Giáo Hội. Khi Thánh Phao-lô nói với các Tín hữu Rô-ma rằng, tất
cả những người tin vào Chúa Ky-tô thì tạo nên một thân thể, ngài thúc giục họ
không khoe khoang điều này; nhưng mỗi người phải nghĩ về chính mình “mỗi người
tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho”
(Rm. 12,3). Ai tin thì sẽ đến để nhìn thấy chính họ trong ánh sáng của niềm tin
mà họ đã tuyên xưng: Chúa
Ky-tô là tấm gương mà trong đó họ tìm thấy hình ảnh của chính họ được biểu lộ một
cách đầy đủ. Và như Chúa
Ky-tô quy tụ lại với Ngài tất cả những người tin, và làm thành thân thể của
Ngài, vì thế người Ky-tô hữu đến để nhìn thấy chính mình như là một chi thể của
thân thể này, trong mối tương quan Ky-tô giáo với tất cả các tín hữu khác.
Hình ảnh về một
thân thể thể không có ý ám chỉ rằng người tín hữu đơn giản là một phần của một
cái tổng thể vô danh, chỉ là một chi tiết trong một cỗ xe lớn; mà là thể hiện sự
hiệp thông thiết yếu của Chúa Ky-tô với các tín hữu và của các tín hữu với nhau
(x. Rm.12,4-5). Người Ky-tô hữu là “một” (x. Gal. 3:28), nhưng theo cách thức
không làm cho họ đánh mất đi tính cách riêng tư của mình; trong sự phục vụ người
khác, họ đi vào chính họ ở mức độ cao nhất. Điều này giải thích tại sao, ở
ngoài thân thể này, ở bên ngoài sự hiệp nhất này của Giáo Hội trong Chúa Ky-tô,
và ở bên ngoài Giáo Hội này - theo lời của
Romano Guardini – “là người mang trong lịch sử cái nhìn toàn thể của Chúa Ky-tô
đối với thế giới” [16] – thì đức tin đã mất đi “trọng lượng” của nó; nó không
còn tìm thấy trạng thái quân bình của nó nữa, tức khoảng cách cần để duy trì
chính nó. Đức tin nhất thiết phải mang tính Giáo Hội; nó được tuyên xưng từ bên
trong thân thể của Chúa Ky-tô như là một sự hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Chính
từ nơi Giáo Hội, mà đức tin làm cho các Ky-tô hữu riêng lẻ mở tâm lòng mình ra
cho toàn thể nhân loại.
Lời
được nghe của Chúa Ky-tô tự chuyển hóa thong qua động thái riêng của chính Lời ấy
bên trong các Ky-tô hữu, trở nên một sự đáp trả, một lời được nói, một sự tuyên
xưng đức tin. Như Thánh Phao-lô viết: “có tin thật trong lòng, .. ; có xưng ra
ngoài miệng, …” (Rm.10,10). Đức tin không phải là một vấn đề cá nhân, một quan
điểm hoàn toàn mang đặc tính cá nhân hay một ý kiến cá nhân: nó đến từ sự nghe
thấy, và nó có nghĩa là tìm thấy sự thể hiện bằng lời và được loan truyền. Bởi vì “làm sao
họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao
mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm.10,14). Đức tin trở nên đang hoạt động
trong người Ky-tô hữu trên cơ sở ân ban mà họ đã nhận được, tình yêu hấp dẫn
con tim của chúng ta đến với Chúa Ky-tô (x. Gal5, 6), và làm cho chúng ta có thể
trở nên một phần trong cuộc hành hương vĩ đại của Giáo Hội suốt dòng lịch sử
cho tến tận cùng thế giới. Đối với những người được biến đổi theo cách này, một
cách nhìn mới sẽ mở ra, đức tin trở nên ánh sáng cho đôi mắt của họ.
BBT.
Bài có liên quan: THÔNG ĐIỆP - LUMEN FIDEI - ÁNH SÁNG ĐỨC TIN (chương I)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét